nhưng lần lượt chỉ có khoảng 100, 80 và 300 ngôn ngữ bản địa. Song, New
Guinea và Vanuatu, với diện tích tương ứng chỉ khoảng 300.000 và 4.700
dặm vuông, lại có đến 1.000 và 110 ngôn ngữ bản địa. Điều đó có nghĩa là
mỗi ngôn ngữ được sử dụng trên một diện tích trung bình khoảng ở Nga
(66.000 dặm vuông), Canada ( 49.000 dặm vuông) và Trung Quốc (12.000
dặm vuông); nhưng chỉ trên 300 và 42 dặm vuông đối với New Guinea và
Vanuatu.
Các nhà ngôn ngữ học nhận ra các yếu tố sinh thái, kinh tế xã hội và lịch sử
góp phần vào câu trả lời. Sự đa dạng ngôn ngữ - nghĩa là, số lượng ngôn
ngữ bản địa trên mỗi diện tích 1.000 dặm vuông - có tương quan với rất
nhiều yếu tố có tiềm năng giải thích, nhưng những yếu tố này lại lần lượt
tương quan lẫn nhau. Do đó, người ta phải dùng đến những phương pháp
thống kê, như phép phân tích quy hồi, để tìm ra yếu tố nào có ảnh hưởng
chính đến sự đa dạng ngôn ngữ cao hay thấp và những yếu tố nào chỉ có tác
dụng gián tiếp thông qua mối tương quan của nó với các yếu tố chính. Ví
dụ, có một mối tương quan thuận giữa việc sở hữu xe Rolls-Royce và tuổi
thọ: những người sở hữu xe Rolls-Royce có tuổi thọ trung bình lớn hơn
những người không sở hữu xe Rolls-Royces. Việc sở hữu xe Rolls-Royce
không trực tiếp cải thiện khả năng sống còn của con người, nhưng vì người
sở hữu xe Rolls-Royce thường có rất nhiều tiền, cho phép họ chi trả cho
những dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất, đó mới chính là nguyên nhân
thực sự giúp kéo dài tuổi thọ của họ. Tuy nhiên, khi nói đến tương quan của
sự đa dạng ngôn ngữ, người ta vẫn chưa thống nhất về nguyên nhân căn
bản trên thực tế.
Bốn mối tương quan sinh thái gần nhất với sự đa dạng ngôn ngữ là vĩ độ,
biến đổi khí hậu, năng suất sinh học và đa dạng sinh thái địa phương. Đầu
tiên, sự đa dạng ngôn ngữ giảm dần từ xích đạo về phía hai cực: khi cho
các yếu tố khác là như nhau, thì những khu vực nhiệt đới có số lượng ngôn
ngữ nhiều hơn so với những khu vực có diện tích tương đương ở các vĩ độ
cao hơn. Thứ hai, tại cùng một vĩ độ, sự đa dạng ngôn ngữ giảm theo sự