PHAN VĂN DẬT
Sinh ngày 17 août 1909 ở làng Phú Xuân, huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Chánh quán: làng Đạo Đầu, phủ Triệu Phong (Quảng Trị).
Học trường Quốc học Huế đến đậu thành chung. Hiện làm thư ký ngạch trước bạ Huế.
Viết văn từ 1924, đến 1927 có thơ đăng Nam Phong, Thần kinh, Rạng Đông (ký Tiêu Lang và Thường Nga Phố). Đã xuất bản: Bâng
khuâng (1935).
Hồi décembre 1935 tôi có viết trên báo Tràng An một bài về quyển Bâng khuâng. Nay xem lại
thơ Phan Văn Dật cảm tưởng vẫn không khác xưa. Vậy xin trích mấy đoạn chính trong bài ấy.
Trong làng thơ Phan Văn Dật thuộc về phái thanh niên. Nhưng có lẽ thanh niên vì tuổi hơn vì
thơ. Giữa lúc một luồng không khí mới thúc giục người ta thoát ly gia đình, Phan Văn Dật đã dám
ca tụng cái tình cha con, anh em; sách của người, người đề tặng song thân, tưởng ngày nay cũng
là một điều ít có.
Những điều người mơ ước cũng giống hệt những điều mơ ước của các cụ ta ngày xưa: một cuộc
đời bình dị nơi thôn dã. Tôi thấy ở người cái lòng chán nản, hơn nữa, cái lòng căm giận những nơi
đô hội. Mối hận dài trong thơ Phan Văn Dật sẽ chẳng là cái hận của Dương Quý Phi bị hy sinh vì
lẽ nước, nó là cái hận một người đàn bà bị sức quyến rũ của thị thành cướp mất chồng con.
Nguyễn Nhược Pháp với tập Ngày xưa đã nhìn cảnh vật xưa bằng con mắt một người thời nay.
Phan Văn Dật với tập Bâng khuâng đã nhìn cảnh vật ngày nay sau bức màn một tâm hồn xưa.
Giữa cuộc đời náo động, người ngoảnh mặt làm ngơ và tự tạo cho mình một thế giới riêng, một
thế giới lặng lẽ đầy thơ mộng. Cuộc đời như thế ắt sẽ bằng phẳng vô sự. Nhưng vô sự chỉ đối với
những con mắt không tình. Thực ra trong lòng thi nhân không phải vô sự: thi nhân không thiết
chuyện hàng ngày nhưng vẫn luôn luôn sống với một cuộc đời đã qua rất phong phú:
Tôi không hay hưởng cùng cái hiện tại
Hững hờ, tôi thường để nó đi qua.
Chuyện ngày nay sau tôi sẽ xót xa,
Tôi chỉ tiếc những giờ không trở lại.