Thiền Tông Vĩnh Gia Tập
13
đảo hoặc sanh bèn thành luân chuyển vậy. Nếu
như biết rõ cảnh chẳng phải có thì trước mắt không
gì chẳng phải là đạo tràng. Biết rõ vốn không, do đó
chẳng duyên mà chiếu, viên dung pháp giới giải và
hoặc nào khác, lấy hàm linh để biện lòng bi, dứt
tưởng niệm để mà rõ trí. Trí sanh thì pháp sẽ viên
chiếu, lìa cảnh lấy gì quán bi ? Bi trí lý hợp gồm
thâu, trái chúng sanh thì lấy gì làm năng độ ? Lòng
bi rộng lớn độ hết chúng sanh, chiếu tột cùng cảnh
để trí viên mãn. Trí viên mãn thì lặng yên hay
huyên náo đồng xem như nhau, lòng bi rộng lớn thì
oán thân đều cứu cả. Như vậy, đâu cần ở lâu trong
hang núi mà theo chỗ tùy duyên. Huống chi pháp
pháp rỗng rang dung hợp, tâm tâm tịch diệt vốn tự
chẳng phải có, ai gượng gọi là không thì có sự
huyên náo gì đáng gọi là huyên náo, có sự yên lặng
nào đáng gọi là yên lặng. Nếu biết vật và ngã hợp
nhất thì kia đây chẳng gì không phải là đạo tràng,
đâu còn thuận theo sự huyên náo của nhân gian
hay nhàn rỗi ở nơi hang núi. Do đó, bỏ động cầu
tịnh là gông ghét cùm yêu, lìa oán cầu thân là cũi
chán lồng ưa. Nếu có thể lặng lẽ nơi huyên náo thì
chợ búa không đâu chẳng phải là chỗ ngồi yên.
Cầu chỉ lỗi lầm, nhận lãnh lời dạy, oan trái do từ
thiện hữu. Như vậy cướp đoạt hay hủy nhục đâu
từng chẳng phải bổn sư ta, kêu la huyên náo không
có gì chẳng phải tịch diệt. Cho nên biết diệu đạo
không có hình mà vạn tượng chẳng trái với nó;
chân như tịch diệt, các âm vang chẳng khác với
tiếng. Mê thì kiến đảo hoặc sanh, ngộ thì không có
trái thuận. Vắng lặng chẳng phải có, duyên hội thì
sanh, núi Nga Nghi (Ngọn núi Cửu Nghi)chẳng phải
không, do duyên tan mà có thể diệt, diệt đã chẳng
phải diệt, lấy gì để diệt cái diệt; sanh đã chẳng phải
sanh, lấy gì để sanh cái sanh. Sanh diệt đã không
thì thật tướng thường trụ. Vì vậy, nước định mênh
mông niệm trần nào chẳng bị tẩy sạch, đèn trí sáng
ngời hoặc nào không bị trừ khử. Trái đó thì sáu nẻo
tuần hoàn, hội đó thì ba đường ra khỏi. Như vậy
sao chẳng đi thuyền tuệ rong chơi trên biển pháp,
mà lại muốn đi xe gãy trục vào hang núi ư ! Cho
nên biết vật loại lăng xăng, nhưng tánh chúng tự là
một, nguồn linh lặng lặng chẳng chiếu mà biết. Thật
tướng thiên chân, linh trí chẳng phải tạo, đối với
người mê thì gọi là mất, đối với người ngộ thì gọi là
được. Được mất tại người, đâu có quan hệ gì đến
động tịnh, ví như người chưa biết đi thuyền mà
muốn oán ghét dòng nước quanh co kia ư ! Nếu có
thể khéo biết huyền tông, tâm rỗng rang thầm khế
hợp, động tịnh nói nín luôn là quy củ, lặng lẽ có chỗ
quy về, điềm nhiên không gián cách. Như vậy mới
có thể tiêu dao nơi hang núi, phóng khoáng chốn
thôn trang, thong thả hình nghi, vắng lặng tâm phủ,
điềm đạm bên trong, thâm trầm bên ngoài. Với thân
thì như bị câu thúc mà tâm thì tự tại thong dong,
hiện hình dung chốn hoàn vũ, giấu u linh nơi pháp
giới. Như vậy thì ứng cơ có cảm, thích nghi, không
tiêu chuẩn nhất định.
Thư viết sơ lược, ngoài ra làm sao trình bày cho
hết được, nếu chẳng phải bạn đồng chí, đâu dám
xúc phạm, lúc rảnh ngồi yên xin tạm suy nghĩ. Nếu
tôi nói dối hay sai thì xem xong rồi cứ đốt.
Đồng bạn HUYỀN GIÁC
Kính bái
D
CHƯƠNG X: VĂN PHÁT NGUYỆN
Cúi
lạy viên mãn biến tri giác,
Tịch tịnh bình đẳng bản chân nguyên,43
Tướng tốt trang nghiêm phi hữu vô,
Tuệ sáng soi khắp vi trần sát.
Cúi
lạy trạm nhiên chân diệu giác,
Mười hai phần giáo rất sâu xa,
Phi
văn, phi tự, phi ngôn thuyên,
Một âm tùy loại đều hiểu rõ.
Cúi
lạy thanh tịnh chư Hiền Thánh,
Mười phương hòa hợp thật chân tăng,
Giữ gìn giới cấm không trái phạm,
Cầm tích ôm bình lợi hàm linh.
Noãn sanh, thai sanh và thấp hóa,
Hữu sắc, vô sắc, tưởng, phi tưởng,
Phi
hữu phi vô tưởng, tạp loại,
Sáu
nẻo luân hồi chẳng tạm dừng.
Nay
con
đảnh lễ quy Tam bảo,
Vì
khắp chúng sanh phát đạo tâm,
Quần sanh trầm luân trong biển khổ,
Nguyện nhờ từ lực Phật Pháp Tăng.
Từ bi phương tiện trừ các khổ,
Chẳng bỏ nguyện rộng cứu hàm thức,
Hóa
lực tự tại độ vô cùng,
Hằng sa chúng sanh thành Chánh giác.