thân thiết, khiến gã bồn chồn, nhưng lại không dám tùy tiện xác nhận. Thấy
La Nghị bước vào, gã vội hỏi: “Nữ tử vừa rồi là ai?”
La Nghị đáp: “Là thế ngoại cao nhân vừa tỉ thí với Quang Minh sứ của
Ma Môn trên đỉnh Tung Sơn và hai đệ tử.”
Vân Tương khô giọng hỏi: “Nữ đệ tử của bà ấy… tên là gì?”
La Nghị nghĩ một lát, trầm ngâm nói: “Đệ nghe cao nhân kia gọi nữ đệ
tử là Thanh Hồng, họ thì quên hỏi kỹ rồi.”
Vân Tương sững người, lòng đầy hụt hẫng, thẫn thờ thầm than: “Ta
cũng nhạy cảm quá, hễ nghe thấy giọng Dương Châu lại tưởng là Á Nam.”
“À, đúng rồi!” La Nghị đột nhiên nhớ ra một chuyện: “Trên má nữ đệ
tử ấy có xăm một đóa hoa thủy tiên, trông đẹp lắm!”
La Nghị vừa dứt lời, chỉ nghe “choang” một tiếng, tách trà trong tay
Vân Tương đã rơi xuống đất. Không đợi người khác kịp hiểu chuyện, gã đột
nhiên vùng dậy chạy ra ngoài như một cơn gió.
Vân Tương vừa ra khỏi hậu đường, chợt thấy một người từ ngoài cửa
thong dong bước lại. Trông Vân Tương vội vã chạy ra, y liền nở nụ cười
giễu cợt, làm ra vẻ kinh ngạc châm chọc: “Uy! Công tử Tương biết ta đến
nên cố tình ra đón sao? Ngươi đón thì đón thôi, không cần phải vội vàng
như vậy chứ!”
Vân Tương nhìn kỹ, bất giác thầm than khổ. Thì ra kẻ đến không phải
ai khác mà chính là thiếu chủ Ma Môn Khấu Nguyên Kiệt, ngoài ra còn có
hai nam thanh nữ tú theo sát sau y. Một người là Minh Nguyệt, người kia là
Tuệ Tâm. Hai Quang Minh sứ còn lại là Tịnh Phong và Lực Hoành có lẽ do
ban nãy thụ thương dưới tay Tôn Diệu Ngọc nên không theo đến. Sau lưng
hai người này còn có mười mấy giáo đồ Ma Môn mặc áo bào đen đang âm
thầm bao vây Tế Sinh Đường.
Lúc này Tiêu bá, Trương Bảo và La Nghị cũng đã chạy ra theo. Vừa
thấy đám người Ma Môn, ba người lập tức vây quanh bảo vệ Vân Tương,
hai bên tuốt vũ khí ngầm phòng bị.