duyệt tướng sĩ Tân Quân Doanh, đồng thời luận công ban thưởng cho tất cả
tướng sĩ. Trong thánh chỉ đặc biệt nhắc tới Thiên Môn công tử Tương đã
thống lĩnh Tân Quân Doanh đơn độc Bắc phạt, tuyên gã vào kinh diện thánh.
Nghe lời tuyên triệu bất ngờ, Vân Tương chỉ biết cười khổ, khi trước
khổ công đèn sách chỉ mong mỏi một ngày nào đó có thể bước vào điện Kim
Loan, được liệt vào hàng công khanh, thực hiện hoài bão trong lòng. Thế
nhưng hiện giờ, gã chỉ muốn trốn thật xa.
Tổng binh Phạm Thế Trung tiếp nhận thánh chỉ, vẻ mặt lộ ra nét phấn
khích và ngưỡng mộ kỳ lạ, sau khi bái biệt công công truyền chỉ, bất giác
phấn khích nói với Vân Tương và Võ Thắng Văn: “Triều đình đã đặc biệt tổ
chức nghi thức duyệt quân và lễ khải hoàn cho Tân Quân Doanh, triều ta từ
lúc khai quốc đến nay chưa từng có, công tích của các vị sẽ được lưu danh
sử sách! Mạt tướng cũng được hưởng tiếng thơm lây, mạt tướng xin kính hai
vị một chén!”
Hơn nửa năm hứng gió Mạc Bắc và chinh chiến sát phạt khiến gương
mặt của Vân Tương cũng giống như các tướng sĩ Tân Quân Doanh, đều như
mang thêm một lớp vỏ cứng thô ráp, dù đã ngà say, nhưng buồn vui sầu khổ
đều không lộ ra mặt. Trước sự cung kính và chúc tụng của Phạm Thế Trung,
ánh mắt Vân Tương thoáng lộ vẻ bi ai sâu sắc.
“Lưu danh sử sách?” Vân Tương mơ màng nâng chén rượu, ánh mắt
đầy đau khổ: “Sau chiến công hiển hách là bao nhiêu tướng sĩ đã chôn
xương ở nơi đồng hoang? Là bao nhiêu máu tươi của những người vô tội?
Là bao nhiêu oan hồn của phụ nữ, trẻ em? Ta có công sao? Ta dẫn một vạn
người xuất quan, hiện giờ chỉ chưa đầy bốn trăm người quay về, còn hơn
chín nghìn huynh đệ sinh tử vùi xương ở dị quốc, trước những tổn thất nặng
nề này, ai dám xưng mình có công?” Nói đến cuối, nước mắt gã chảy dài,
nghẹn ngào không nói nên lời.
Phạm Thế Trung sững người, không biết nên trả lời thế nào. Võ Thắng
Văn thấy vậy vội bảo tùy tùng: “Công tử say rồi, đỡ công tử xuống nghỉ
ngơi đi.”