quả cấm ăn, trái với lời dặn của Đức Chúa trời, bị Đức Chúa trời rủa sả rằng: “Ta sẽ tăng bội phần sự
đau khổ của ngươi trong khi thai nghén: ngươi phải chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng khiến
ngươi phải xu hướng về chồng và chồng ngươi sẽ cai trị ngươi.”
Khoác hình thể loài người và bị thu về tầm vóc của con cháu Adam, anh
vẫn còn giữ được một vài tính cách của bản thể nguyên sơ. Đôi mắt nông, cái
mũi khoằm mỏ diều, đôi môi dày, đóng khung trong một bộ râu đen xoắn
thành từng vòng rủ xuống ngực
, làm ta nhớ lại những Chérubin ở hòm thánh
tích của Jéhovah
mà những bò mộng ở Nineveh
một cách khá trung thành. Xuống trần gian, anh cũng mang tên là Istar như ở
trên trời, và mặc dầu không thích hư danh, được giải phóng khỏi tất cả thành
kiến xã hội, nhưng trong một nhu cầu vô cùng to lớn và bất cứ về chuyện gì
cũng tỏ ra chân thành và trung thực, anh tuyên bố hàng ngũ hiển hách mà
dòng dõi của anh đã đặt anh vào, trong đẳng cấp thiên giới và, dịch sang tiếng
Pháp tước vị Chérubin của anh bằng một tước vị tương đương, anh tự xưng là
hoàng thân Istar. Ẩn náu giữa loài người, anh đã cảm thấy một mối cảm tình
nồng nàn đối với họ. Trong khi chờ đợi giờ phút giải phóng thiên không, anh
trù tính hạnh phúc cho loài người đổi mới và nóng lòng hoàn tất sự phá sản
của cái thế giới xấu xa này để dựng lên trên đống tro tàn của nó, theo tiếng
thánh thót của thiên cầm
, đô thành hớn hở trong vui sướng và tình yêu. Làm
một nhà hóa học ăn lương của một nhà buôn phân bón, anh sống đạm bạc,
cộng tác với những tờ báo thuộc phái tự do vô chính phủ, phát biểu trong các
cuộc họp công cộng và đã bị kết án nhiều tháng tù vì tội chống quân phiệt.
Rủ xuống ngực: đây là bức chân dung điển hình của người Do Thái.
Jéhovah: tên gọi Đức Chúa Trời trong Cựu Ước, do tiếng Hébrew Yahweh (nghĩa là Ta là kẻ hằng có)
được phiên âm Pháp hóa. - Hòm thánh tích (tabernacle): vốn tabernacle là cái lều trướng bằng vải để kỷ
niệm việc dân tộc Israel rời khỏi Ai Cập, nhưng trong lều có đặt cái hòm thánh tích (Arche d’alliance)