ngọc và hồng ngọc, và chúng tôi lăn lông lốc cứng đờ, bất tỉnh nhân sự trong
suốt một thời gian dài dặc chưa có ai ước lượng nổi.
Đạo quân tinh tú: ám chỉ dải Ngân hà.
Tên đạn (carreaux): nói rộng có thể là chỉ các loại tên đạn, nhưng đặc biệt, nghĩa hẹp là sấm sét của
Jéhovah.
“Tôi tỉnh dậy trong bóng tối tăm, rên rỉ. Và khi mắt tôi đã quen với bóng
tối dày dặc, tôi thấy chung quanh tôi những chiến hữu của tôi nằm sõng sượt
kể có hàng nghìn trên mặt đất sặc mùi lưu hoàng, có những ánh le lói nhợt
nhạt thoáng qua. Mắt tôi chỉ phát hiện thấy những vũng lưu hoàng, miệng núi
lửa phun khói, đầm lầy đầu độc hôi thối. Những núi băng và những biển tối
tăm khép kín chân trời. Một bầu trời hoàng đồng đè nặng lên trán chúng tôi.
Và sự khủng khiếp của nơi đó lớn đến nỗi chúng tôi ngồi xổm mà khóc,
khuỷu tay tỳ lên đầu gối, và hai nắm tay chống vào hai má.
“Nhưng ít lâu, ngước mắt lên, tôi trông thấy vị Séraphin sừng sững trước
mặt tôi như một tòa tháp. Trên cái vẻ lộng lẫy nguyên sơ của Người, sự đau
đớn gieo xuống tấm trang sức ảm đạm và huy hoàng của nó.
“- Các chiến hữu, - Người nói với chúng tôi, chúng ta phải lấy làm vui
sướng, vì đã được giải phóng khỏi vòng nô lệ thiên giới. Ở đây chúng ta được
tự do và tự do trong địa ngục còn hơn là nô lệ ở thiên cung
. Chúng ta không
phải thua trận, vì chúng ta còn chí quyết thắng. Do chúng ta, ngai vàng của vị
Thần độc tôn đã lảo đảo; nó sẽ sụp đổ do chúng ta. Đứng lên! Các chiến hữu,
hãy hăng hái lên!
Câu chú thích bản tiếng Anh của tác giả ở cuối trang chính văn, tác giả đã dịch ý bằng tiếng Pháp ở
trên: “tự do trong địa ngục, còn hơn nô lệ ở thiên cung”. Trích tác phẩm trường thi của Milton, Thiên
đàng đã mất, quyển I câu thơ 251.