biến chưa hề thấy. Phần đông, họ không độc ác và không tàn nhẫn bằng các
vương hầu và các quan phán xét được thiết lập bởi Jéhovah trong các vương
quốc trên trái đất; tuy nhiên, họ có vẻ hung dữ hơn, bởi vì họ phán xử nhân
danh lòng nhân đạo. Khốn nỗi, họ dễ mủi lòng và có một tính dễ cảm lúc nào
cũng xúc động. Mà những người dễ cảm lại dễ cáu và hay bị những cơn
cuồng nộ bột phát. Họ có đạo đức, họ có hạnh kiểm; nghĩa là họ quan niệm
những bổn phận đạo lý được xác định chặt chẽ và phán xét các hành vi của
con người, không theo những hậu quả tự nhiên của nó, mà theo những
nguyên tắc trừu tượng. Trong tất cả các nết xấu có thể nguy hại cho một số
chính khách thì đạo đức là cái nết tai hại nhất: nó đẩy người ta đến tội ác.
Muốn làm việc có ích cho hạnh phúc của con người, thì phải vượt trên tất cả
mọi đạo lý, như Jules thần thánh nọ
. Đức Chúa Trời ít lâu nay bị làm cho
điêu đứng mọi bề, chung quy không đến nỗi bị đau khổ vì những con người
mới đó. Y tìm thấy trong bọn họ những người che chở và được thờ kính dưới
danh hiệu Đấng tối cao
. Thậm chí có thể nói rằng sự khủng bố đánh lạc
hướng triết học và có lợi cho vị thần sáng tạo già, y có vẻ tiêu biểu cho trật tự
tốt, cho sự yên ổn công cộng, cho sự an ninh của con người và của xã hội.
Jules thần thánh (divin Jules): Jules César.
Đấng tối cao (l’Être supreme): trong thời cách mạng Pháp dưới chế độ cộng hòa thứ nhất do Hội nghị
quốc ước (Convention) lãnh đạo và Robespierre là thủ lĩnh, sau phong trào khủng bố, mưu đồ triệt bỏ
Cơ đốc giáo có khuynh hướng quá khích, nên Robespierre phải hòa hoãn lại, và tổ chức sự thờ phụng
Đấng tối cao chứ không phải là Đức chúa trời nữa, và các nghi lễ và khánh tiết được chính phủ Cộng
hòa quy định rõ rệt. Thường các từ điển Pháp-Việt, Pháp-Hoa, vẫn dịch l’Être supreme là Thượng đế.
Chúng tôi bỏ lối dịch đó, sợ làm lầm lẫn với những khái niệm cũ về Đế với Vương với Chúa v.v… và
dịch sát nguyên văn là Đấng tối cao.
“Trong khi sự tự do nảy sinh trong bão táp, thì tôi đương cư trú ở