vậy, vội vàng kéo tay tôi xuống. Tôi vùng khỏi tay cậu ấy, lè lưỡi cười, thầy
hiệu trưởng ngồi cách đó không xa, không thể để tiếng huýt sáo của tôi làm
hỏng hình tượng được.
Quan Hà dùng sức vỗ tay, vừa cười vừa chúc mừng chúng tôi: “Hay quá,
đây là sáng ý của ai thế?”
Tôi không trả lời, Thẩm Viễn Triết nói: “Tất cả cảnh diễn đều là La Kì Kì
dàn dựng, những bức vẽ mặt nạ kia cũng là cậu ấy vẽ một nửa.”
Quan Hà sợ hãi than: “Kì Kì, năm đó cậu cũng giấu tài quá nhé!”
Tôi cười, làm như không nhìn Trương Tuấn, nhưng khóe mắt lại lướt
nhìn cậu, cậu cười nói với Quan Hà, ánh mắt thỉnh thoảng cũng đảo qua tôi,
lạnh như băng, không biết có phải tức giận không mà vỗ tay cứ như không
có sức, đập đập mấy cái tượng trưng.
Lòng tôi thất vọng nặng nề, trong lòng cậu ta tôi còn không bằng một
người bạn học bình th ngay cả chút xíu tán thưởng cậu ta cũng keo kiệt.
Tiết mục hai người múa nghệ thuật của lớp 10-4 được giải nhì, tiết mục
“Mặt nạ hát nói” của lớp tôi giành được cảm tình của giám khảo, được giải
nhất. Lúc thầy hiệu trưởng trao giải cho lớp tôi, còn cố ý biểu dương chúng
tôi, khích lệ tất cả học sinh cũng phải phát huy tính sáng tạo, chủ đề của lớp
10-5 có tính tích cực, lành mạnh cao, mà lại không buồn tẻ, nhàm chán.
Lớp tôi mừng như điên, ai cũng cười vui, bởi tiết mục này tất cả mọi
người đều có công.
Sau cuộc vui, mọi người cùng giải tán, Thẩm Viễn Triết gọi Vương
Thiến và tôi lại: “Lần này toàn là công của hai cậu, hai cậu lại cứ về như
vậy à? Nếu không có việc gì vội, tớ mời hai cậu ra chợ đêm ăn cái gì đó, tỏ
lòng cảm ơn.”