người rồi hôn cô. Cảm giác giống như uống nước ở một dòng suối lạnh với
mặt trời bên trên, nhưng áp lực của anh có lẽ mãnh liệt hơn anh tưởng, vì
mặt cô đỏ bừng và lùi lại như thể anh làm cô giật mình.
- Gì thế? - anh mỉm cười hỏi và cô nhìn anh ngạc nhiên, trả lời:
- Không có gì.
Hai người cảm thấy hơi lúng túng, cô rút tay ra khỏi anh. Đó là lần duy
nhất anh hôn lên môi cô ngoại trừ một lần thoáng qua ở nhà kính nhà
Beaufort. Anh nhận thấy cô bối rối, và khẽ run rẩy bên ngoài sự điềm tĩnh
trẻ con của cô.
- Nói cho anh biết em thường làm gì cả ngày? - Anh nói, đan tay sau gáy
và giơ mũ ra che ánh mặt trời chói lọi. Gợi cho cô nói về những thứ quen
thuộc và đơn giản là cách dễ dàng nhất để tiếp tục chuỗi ý nghĩ riêng của
anh. Rồi anh ngồi nghe những việc đơn giản như bơi lội, đi thuyền buồm và
cưỡi ngựa, hơi khác biệt thì có một cuộc khiêu vũ đặc biệt tại quán trọ cổ
khi có một chiếc tàu chiến đến. Một vài người thú vị từ Philadelphia và
Baltimore đang nghỉ ở quán trọ, và nhà Selfridge Merry đã ở đó trong ba
tuần vì Kate Merry bị bệnh viêm cuống phổi. Họ định sắp xếp một sân
quần vợt trên cát, nhưng không ai ngoài Kate và May có vợt, hầu hết mọi
người còn chưa từng nghe về môn thể thao này.
Tất cả những điều này khiến cô rất bận rộn, cô không có thời gian làm gì
khác ngoài việc xem quyển sách da bê nhỏ mà Archer đã gửi cô tuần trước
đó (Những bài thơ xôn- nê của Bồ Đào Nha - the Sonnets from the
Portuguese). Tuy nhiên cô cũng đang học thuộc lòng bài thơ Làm cách nào
họ mang tin tốt từ Ghent đến Aix (How they brought the Good News from
Ghent to Aix), bởi vì đó là một trong những thứ đầu tiên anh từng đọc cho
cô nghe, và cô thấy vui khi có thể kể cho anh nghe rằng Kate Merry chưa
từng nghe đến tên nhà thơ Robert Browning
.
Đột nhiên cô đứng dậy, thốt lên rằng họ sẽ đến bữa sáng muộn, và họ vội
vàng quay lại ngôi nhà xiêu vẹo với cổng không sơn và hàng rào cây đuôi
công và cây phong lữ không tỉa xén mà nhà Welland đã đặt vào cho mùa