Tủ sách Thực Dƣỡng
T
T
h
h
ự
ự
c
c
d
d
ư
ư
ỡ
ỡ
n
n
g
g
đ
đ
ặ
ặ
c
c
t
t
r
r
ị
ị
u
u
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
–
–
U
U
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
t
t
r
r
ẻ
ẻ
e
e
m
m
h
h
t
t
t
t
p
p
:
:
/
/
/
/
t
t
h
h
u
u
c
c
d
d
u
u
o
o
n
n
g
g
.
.
v
v
n
n
Trang 124
cứu về ảnh hưởng của những mô bạch huyết bị cắt đi dẫn tới bệnh nhiễm sắc tố, bạch huyết và ADIS”
. Tƣ
liệu :
S.McCombie, “Cắt Amidan đó là yếu tố giúp AIDS Medical Hypotheres, 19:291.
Nói về sự dinh dƣỡng, lây nhiễm và hệ thống miễn dịch, một nhà nghiên cứu nói rằng
Carein và Bovine gammag lobulin, 2 chất kháng thể đƣợc tìm thấy trong sữa, có thể đƣợc hấp thụ
trực tiếp vào máu đặc biệt ở những ngƣời thiếu hụt IgA, và góp phần vào sự rối loạn hệ thống miễn
dịch khác nhau, bao gồm chứng viêm khớp, bệnh Hodgkin, khối u não, và những loại ung thƣ
khác. IgA là 1 kháng thể thông thƣờng đƣợc tìm thấy ở trẻ em, những bé đƣợc nuôi bằng sữa mẹ.
Tư liệu : C.cunningham-Rundles “Failure of the G.I Tract Barrier in Patients with a Suppressed Immune
Gystem” LecYure Hội thảo tại trường Giải phẫu và Vật lý, Columbia University, 4-5 tháng 12/1986.
Nuôi trẻ bằng sữa mẹ giúp giảm khả năng ung thƣ ở cả bà mẹ và trẻ nhỏ. Năm 1988
những nhà nghiên cứu từ viện Quốc gia về sức khỏe trẻ em và con ngƣời ở Bethesda, Maryland,
tìm thấy những trẻ đƣợc nuôi bằng sữa mẹ hơn 6 tháng sẽ khó có khả năng nhiễm bệnh ung thƣ
trẻ em đặc biệt là bệnh bạch huyết. Trong 1 cuộc nghiên cứu, những trẻ em đƣợc nuôi dƣỡng
bằng sữa mẹ ít hơn 6 tháng thì có khả năng mắc bệnh ung thƣ gấp 2 lần so với những trẻ em
đƣợc nuôi trên 6 tháng ở độ tuổi 15. Chúng cũng có nguy cơ nhiễm bệnh bạch huyết gấp 5 lần.
Sữa mẹ có những vi khuẩn rất tốt cho trẻ làm tăng sức đề kháng của cơ thể và bảo vệ trẻ khỏi
bệnh tật bao gồm bệnh bạch huyết.
Tư liệu: “Nuôi trẻ bằng sữa mẹ liên quan đến việc giảm khả năng
ung thư ở trẻ và bà mẹ” Journal of the National Cancer Institute 80:1362-63.
Năm 1983, Ban Nông nghiệp của Mỹ tán đồng dùng sản phẩm đậu nành và những sản
phẩm protein rau củ để thay thế chính cho thịt gia cầm, hải sản vào bữa trƣa ở trƣờng và những
chƣơng trình ăn uống khác. Nói về sự thuận lợi cho sức khỏe của đậu nành, những nhà nghiên
cứu học năm 1989 nhấn mạnh rằng sản phẩm đậu nành đƣợc so sánh với sữa về protein dùng
trong trƣờng tiểu học cho những trẻ lớn, ngoại trừ đối với trẻ sinh non. Protein của đậu nành : có
thể so với nguồn protein ở động vật dùng cho những ngƣời ăn kiêng. Công thức của đậu nành
chứa đƣờng lactoza và nhiều chất khác rất tốt cho trẻ nhỏ và bé vốn rất nhạy cảm với protein của
sữa bò vì nó có thể gây ỉa chảy và sụt ký. Sản phẩm đậu nành có thể giảm lƣợng cholesteron và
triglyceride, có lƣợng lipid cao chống lại bệnh đau tim, sản phẩm đậu nành rất tốt trong việc
giảm lƣợng glucose trong máu và chống lại bệnh đái đƣờng. Một phƣơng pháp thực tiễn trong
chế độ ăn kiêng ở Mỹ là phƣơng pháp nói trên (Ban Nông nghiệp Mỹ) liên quan việc thay thế
thực phẩm động vật bằng ngũ cốc và rau đậu.
Sự kết luận của các nhà khoa học - tư liệu : John
Erdman và Elizabeth Fordyce “Thực phẩm từ đậu và phương pháp thực dưỡng”. American Journal of
elinical Nutrition 49:725-37.
Trong nhiều thử nghiệm dùng tàu hũ trong bữa ăn trƣa cho các em ở trƣờng năm 1990, sự
phân tích cho thấy dinh dƣỡng của 9 món tàu hũ tham gia cuộc thử nghiệm thì theo sát sự hƣớng
dẫn chế độ ăn uống hơn là bò, thịt gà, trứng, pho mát. Trẻ em rất thích ăn tàu hũ hơn là thịt, bơ
sữa trong nhiều món bao gồm: sốt cà, pho mát, thịt hầm …
Tư liệu : H.L. Ashraf et al “Dùng tàu hũ
trong bữa ăn ở trường” Journal of the American Dietetic Association 90:114-16.
Trong cuộc nghiên cứu 60 bệnh nhân AIDS, những nhà y học nói rằng hầu hết họ khi họ
còn bé đƣợc nuôi sữa hộp ngoại trừ 1 ngƣời đƣợc nuôi bằng sữa mẹ trong vòng 3 tháng.
Tư liệu :