Tủ sách Thực Dƣỡng
T
T
h
h
ự
ự
c
c
d
d
ư
ư
ỡ
ỡ
n
n
g
g
đ
đ
ặ
ặ
c
c
t
t
r
r
ị
ị
c
c
á
á
c
c
b
b
ệ
ệ
n
n
h
h
u
u
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
h
h
t
t
t
t
p
p
:
:
/
/
/
/
t
t
h
h
u
u
c
c
d
d
u
u
o
o
n
n
g
g
.
.
v
v
n
n
Trang 83
Vật Lý Y khoa đại học California ở Berkeley, là chuyên gia về những thống kê hậu quả phẫu
thuật, thuốc và bức xạ. Ý kiến của ông nhƣ sau:
Những nghiên cứu của tôi đã chứng tỏ một cách thuyết phục rằng những bệnh nhân ung
thư không được kiểm tra thật sự lại sống lâu gấp 4 lần những người được chữa trị. Với cùng loại
bệnh ung thư, những người từ chối điều trị sống trung bình 12 năm rưỡi. Còn những người chấp
nhận giải phẫu hay những hình thức chữa trị khác thì chỉ sống trung bình 3 năm. Tôi cho rằng đó
là do phẫu thuật gây ra những tổn thương đến hệ thống bảo vệ tự nhiên của cơ thể. Cơ thể con
người có sự phòng vệ tự nhiên, đối với bất kỳ loại ung thư nào.
Những kết luận của bác sĩ Hardin giống với sự cảnh báo của Hippocrate rằng những bệnh
ung thƣ đƣợc điều trị với cái chết đã trực sẵn, nhƣng những ngƣời không điều trị với dao mổ thì
sống một thời gian khá dài.
Cách đây 300 năm, vào trƣớc thời gian cuộc Cách Mạng Khoa Học, tác giả ngƣời Pháp
Modière đã nhận xét rất lý thú rằng:
“Nếu chúng ta để yên mọi thứ cho Tự Nhiên, thì Tự Nhiên sẽ nhẹ
nhàng khôi phục những rối loạn mà Tạo Hóa buộc chúng ta phải gánh chịu. Chính do sự hồi hộp, thiếu
kiên nhẫn của con người đã phá hỏng tất cả, và hầu như mọi người chết vì cách chữa trị của họ chứ
không phải vì bệnh tật”.
Từ những bài tƣờng trình, chẳng hạn nhƣ bài của bác sĩ Hardin, nhiều ngƣời đã đi đến kết
luận rằng Y học hiện đại là nguyên nhân gây bệnh và trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng chẳng còn
ai đi đến bác sĩ hay đi đến bệnh viện. Tuy nhiên, cần xem xét kỹ những tiến bộ có ý nghĩa tích
cực trong việc điều trị khẩn cấp, hay kìm hãm và làm giảm cơn đau, từng phát triển qua nhiều
thập niên. Nói chung, chúng ta nên tránh những nét đặc trƣng của Y khoa hiện đại vì nó tiềm
phục sự tổn hại cho con ngƣời và thƣờng là điều trị triệu chứng hơn là nhắm thẳng vào nguyên
nhân. Tuy vậy, trong một vài trƣờng hợp đặc biệt cũng cần thiết phải dùng đến những kỹ thuật và
thiết bị cứu sống của bệnh viện. Ví dụ nhƣ một bệnh nhân ung thƣ không còn ăn đƣợc và đang
sụt cân nhanh thì họ rất cần đƣợc tiêm Glucoza vào tĩnh mạch cho đến khi sự trao đổi chất trong
cơ thể ổn định trở lại. Trong lúc đó, ở bệnh viện ngƣời ta phải chuẩn bị sẵn bột, hạt mềm và rau
cải nghiền để bệnh nhân dùng khi họ bắt đầu thèm ăn lại. Tƣơng tự nhƣ vậy, cũng có những hoàn
cảnh cấp thiết phải giải phẫu và điều trị bức xạ là cần cho chứng tắc nghẽn trong hệ tiêu hóa, và
hoàn toàn không thể đƣa bất cứ loại thức ăn nào vào đƣợc.
Sự khủng hoảng niềm tin vào khả năng chữa bệnh ung thƣ của y học hiện đại gây ra sự
mất mát sâu xa về nhận thức và nhận xét rằng chúng ta đang cùng nhau quan tâm đến sức khỏe,
hạnh phúc của chính chúng ta, của loài ngƣời, hàng ngày chúng ta kể về những con ngƣời rất
năng động và bề ngoài rất mạnh khỏe. Thế nhƣng trong một cuộc kiểm tra y khoa định kỳ, họ
khám phá ra cơ thể anh ta đang có những khối ung thƣ. Chúng ta cũng nghe chuyện những ngƣời
chết vì nhồi máu cơ tim ngay sau khi nhận từ tay bác sĩ tờ chứng nhận sức khỏe. Chúng ta còn
đọc trên báo về một tội ác man rợ mà có ngƣời đã gây ra do những rối loạn cảm xúc hay tinh
thần, nhƣng gia đình, hàng xóm và bạn đồng nghiệp của anh ta không hề biết đến.
Những kỹ thuật tinh vi nhất của chúng ta có thể tiết lộ kết cấu hóa học của máu và mô
não con ngƣời, nhƣng không thể báo cho ta biết trƣớc, liệu ta có thể mắc bệnh gì nghiêm trọng