“Bữa điểm tâm? Muốn ăn điểm tâm không, đồ đen?”
“Dạ muốn.”
“Đói hả, đồ mọi đen?”
“Vâng.”
“Đây.”
Thỉnh thoảng thằng đàn ông đang quỳ có thể chọn cái giá phải trả là một
phát súng vào đầu để mang một chút da quy đầu cùng hắn về với Chúa. Lúc
ấy Paul D không biết thế. Anh đang nhìn hai bàn tay tê liệt của mình, ngửi
thấy mùi tên lính gác, lắng nghe những tiếng gừ gừ nho nhỏ của hắn rất
giống tiếng chim bồ câu, trong lúc hắn đứng trước mặt người đàn ông đang
quỳ trong sương mù bên tay phải của anh. Tin chắc rằng anh sẽ là người kế
đến, Paul D đã nôn mửa − nhưng không nôn ra được gì. Một tên lính gác
đang đứng nhìn đập mạnh khẩu súng trường vào vai anh và tên đang bận
rộn quyết định bỏ qua thằng mới đến vì sợ quần và giày của hắn sẽ bị vấy
dơ đồ mửa của bọn da đen.
“Chàooo!”
Ngoài tiếng “dạ, thưa ngài,” đấy là âm thanh đầu tiên một người đàn ông
da đen được phép nói mỗi sáng, và người dẫn đầu sợi xích kêu to hết sức
mình. “Chàooo!” Paul D chưa bao giờ biết rõ làm sao anh ta biết khi nào
thì nên hét lời ân sủng ấy. Họ gọi anh ta là ông Chào và lúc đầu Paul D
nghĩ bọn lính gác đã bảo anh ta khi nào ra hiệu cho bọn tù đứng dậy và
nhảy điệu hai bước trong tiếng nhạc của chuỗi dây xích rèn. Sau đó anh
ngờ rằng không phải như thế. Cho đến ngày hôm nay, anh vẫn tin rằng
“Chàoo!” lúc rạng đông và “Hooo!” khi chiều tối đến là trách nhiệm ông
Chào đã tự nhận lấy vì chỉ có mình anh ta biết thế nào là đủ, thế nào là quá
đáng, khi việc đã xong, khi giờ đã điểm.
Họ nhảy điệu dây xích qua những cánh đồng, qua những khu rừng, đến
một con đường mòn dẫn đến mỏ đá khoáng feldspar đẹp đến kinh ngạc, và