nhiễm chân Phật. Như vậy là phạm Ðột-kiết-la.
– Thưa Tôn giả, là người thị giả, khi ấy tôi thấy bà cụ có một lòng cung kính
Thế Tôn quá nên tôi không dám can ngăn bà. Nhưng Tôn giả đã bảo có lỗi
thì tôi xin sám hối.
Thứ sáu: Trước khi đức Phật nhập Niết-bàn, Ngài có dạy rằng: Thế Tôn đã
dạy giới luật cho hàng xuất gia và tại gia. Riêng hàng Tỷ kheo thì Ngài có
dạy tùy nơi, tùy lúc, có thể xả bớt tiểu tiểu giới, nghĩa là có thể bỏ đi những
giới điều vụn vặt. Tại sao Tôn giả không thưa Phật, xả tiểu tiểu giới là những
tiểu tiểu giới nào? Thế là phạm Ðột-kiết-la.
– Thưa Tôn giả, lúc đó tôi cũng quên thưa Phật về chuyện ấy. Bây giờ Tôn
giả nói tôi mới nhớ, nay Tôn giả bảo tôi sám hối, tôi cũng xin sám hối.
Tôi chỉ đứng trên một điểm nhỏ "méo mó nghề nghiệp" để đọc bản án của
Ngài Ca-diếp và các câu trả lời của Ngài A-nan, và từ đó thấy có hai vấn đề:
1. Ý của Ngài A-nan trong suốt và Ngài A-nan không thấy mình phạm tội. Ở
mỗi câu kết luận, Ngài nói: "Nhưng mà Tôn giả đã nói thế thì tôi xin sám
hối".
2. Chỉ có ở lời buộc tội thứ sáu (về vấn đề Phật nhập Niết-bàn), Ngài A-nan
mới thấy mình có "lỗi". Và Ngài nói: "Tôi rất ân hận. Tôn giả nói tôi phạm
Ðột-kiết-la, tôi xin sám hối". Lời buộc tội thứ sáu của Ngài Ca-diếp (về
những giới điều tiểu tiết) thật khó trả lời cho Ngài A-nan vốn là người quá
thông minh để hiểu thế nào là tiểu tiết. Cách trả lời của Ngài A-nan cũng gần
như cách trả lời chung: "Nay tôn giả bảo tôi sám hối, tôi cũng sám hối".
Từ hai ý nghĩ đó, tôi lại đem luật để chất vấn Ngài A-nan.
Nơi trang 139, quyển Cương yếu giới luật của Hòa thượng Thiện Siêu, tôi
đọc thấy có hai trường hợp "phi pháp phi luật" như thế này:
– Một Tỷ kheo có tội mà nói không có.
– Một Tỷ kheo không thấy có tội, mà các Tỷ kheo nói có, thầy cũng sám hối
xin bỏ. Ðó cũng là phi pháp phi luật.
Tôi thấy điều này quan trọng lắm, bởi vì đó là ý nghĩa của sám hối. Không
thấy có tội mà sám hối thì trật hai lần: trật với khái niệm "tội" và trật với khái
niệm "sám hối". Thế thì Ngài A-nan đã chẳng trật hai lần hay sao? Ðó là vấn