đấy nhìn xuống, thấy mây mù khói toả, sương trắng đục ôm quẩn quanh
vực sâu vạn trượng, ngước trông lên, lầu các chon von như đang muốn đâm
toạc bầu trời cao đổ xầm xập xuống, làm người ta bỗng bị cảm giác nghẹt
thở.
Ngẩng đầu nhìn lầu các cao ngất, Cốc Chẩn bùi ngùi nói:
- Chả trách năm xưa những lần Đông Đảo tấn công Tây Thành, đều bị
đánh thua chạy tơi tả! Chỗ này hiểm trở, đích thị "Nhất phu đương quan,
vạn phu mạc khai" (một người trấn giữ, vạn người khó lòng vượt qua
được!).
Tiên Bích lắc đầu, nói:
- Lúc Đông Đảo tấn công, chỗ này chẳng qua mới xây có bốn, năm toà
lâu đài, khác xa ngày nay. Sau hơn hai trăm năm gầy dựng, mới được như
bây giờ.
Cốc Chẩn khen ngợi:
- Tài năng xây dựng như người trời đó, thật là trác tuyệt!
Chẳng mấy chốc, qua khỏi một quãng đường dốc, chợt hiện ra một toà
thạch đình, mái đình phủ lấp đầy tuyết trắng, hai bên đình là hai cây liễu
héo khô, đứng giương nhánh cành phất phơ trong gió, nom thê lương khôn
xiết. Giữa đình là một ngôi mộ đá xanh, tấm bia trước mộ khắc hai chữ
"Lãnh hương", đại tự thiếp vàng đã phai tàn, không còn rõ nét nữa.
Tiên Bích, Ngu Chiếu đến trước thạch đình, đứng mặc niệm. Cốc Chẩn
thắc mắc:
- Nơi đây là chỗ yên nghỉ của ai vậy? Sao không thấy khắc tên?
Tiên Bích đáp: