110
l
ấy làm lạ khi bác sĩ William Brady đã viết như sau trong tạp chí Berkeley Gazette ngày 1
Tháng 9 năm 1954:
Tôi chưa bao giờ thấy một trường hợp bệnh dại ở người và tôi chưa bao giờ gặp một
bác sĩ đã thấy một trường hợp, nhưng chúng tôi biết rằng việc tiêm phòng Pasteur đôi
khi gây ra cái ch
ết .... Việc điều trị Pasteur là mù quáng và không ai biết liệu việc
điều trị Pasteur có tạo ra bất kỳ sự bảo vệ nào chống lại bệnh dại hay không. Tôi sẽ
không bao gi
ờ chấp nhận việc điều trị Pasteur hoặc áp dụng cho bất cứ ai dưới bất kỳ
hoàn c
ảnh nào, bởi vì tôi sợ rằng mũi tiêm sẽ có ảnh hưởng tai hại. Nó không phải là
luôn luôn thành công và đôi khi gây ra chứng tê liệt [11].
B
ệnh dại là gì? T.D. Dillon, một chủ sở hữu cũi nhốt chó, nói rằng hầu hết các ca được cho là
b
ệnh dại thực sự là sự ngất xỉu do chạy quá sức, ốm mọc răng, đau bụng giun, say nắng khi
ti
ếp xúc với nhiệt, hoặc sự cuồng loạn khi con chó lạc vào một môi trường xa lạ như một
thành ph
ố nhộn nhịp đông đúc. Các chủ cũi khác cho rằng cái gọi là chó dại có thể là do bị
đói, khát, hay sợ hãi. Việc điều trị Pasteur cũng nguy hiểm đối với chó như đối với con
người. Dillon nói thêm rằng hầu hết những con chó mà ông biết được tiêm huyết thanh bệnh
d
ại đã chết do ảnh hưởng của thuốc [12].
V
ậy trên thực tế tỷ lệ mắc chứng sợ nước có giảm sau khi điều trị Pasteur được áp dụng? Bác
sĩ Charles W. Dulles, cựu giảng viên tại Đại học Pennsylvania, cho biết, “số liệu thống kê ở
các nước nơi mà phương pháp điều trị Pasteur được sử dụng chỉ ra rằng số lượng các ca tử
vong do s
ợ nước đã tăng lên chứ không hề giảm đi” [13]. Ethyl Douglas Hume chỉ ra rằng
trước khi điều trị Pasteur xuất hiện số lượng trung bình của các ca tử vong mỗi năm do chứng
s
ợ nước ở Pháp là 30. Sau khi việc điều trị Pasteur được áp dụng thì con số đã tăng lên 45. Cô
cũng thảo luận chi tiết về việc các số liệu đã được chế tác như thế nào để tạo ấn tượng về một
s
ự “thành công” [14]. Điều này nghe có vẻ quen thuộc?
Nh
ững gì chúng tôi bàn về vi rút bệnh dại cũng đúng đối với các vi rút khác. Căn bệnh mà
m
ột vi rút nào đó có liên quan đôi khi xuất hiện và đôi khi không; những người có mang một
lo
ại vi rút nào đó có thể có hoặc không có bệnh liên quan đến nó. (Xem bảng 2) Một vài năm
trước đây, tôi có nghe bác sĩ tâm thần George Ritchie mô tả trong một bài nói chuyện trước
công chúng v
ề sự phổ biến của vi – rút bại liệt. Ông kể về một thị trấn nhỏ ở Virginia (tôi
quên tên) trong đó các bác sĩ lấy mẫu vi khuẩn ở cổ họng của tất cả mọi người trong thị trấn.
T
ất cả mọi người đều có vi rút bại liệt, nhưng có ít hơn 10 % dân số bộc lộ bất kỳ triệu chứng
nào. Trong s
ố này, một phần ba mắc cảm lạnh nhẹ, một phần ba mắc chứng tê cứng ở chân
tay, và m
ột phần ba tử vong do bệnh hành tủy bại liệt [15].