14
m
ột chương về tuyên truyền và việc sử dụng câu chữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Nếu
chúng ta mu
ốn trưởng thành với tư cách là một cách cá nhân hay là một quốc gia, chúng ta
c
ần phát triển khả năng nhận biết và phân biệt. Nhận ra được sự tuyên truyền và thông tin sai
l
ạc là một phần của quá trình này. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nó có thể là cái quyết
định giữa sức khỏe và bệnh tật, thậm chí là giữa sự sống và cái chết. “Nếu nhân loại vượt qua
được các cuộc khủng hoảng hiện thời một cách an toàn”, Buckminster Fuller nhắc nhở chúng
ta, “nó s
ẽ là do một phần lớn các cá nhân hiện đang tự mình suy nghĩ” [2]. Chương này – và
th
ực ra cả cuốn sách này – là một bước đi theo hướng đó.
Chương 13 hướng chúng ta vào một hệ thống chăm sóc sức khỏe mở, có nhiều sự lựa chọn,
t
ập hợp phần lớn những gì đã được ngụ ý trong suốt cuốn sách. Nếu chúng ta muốn thay đổi,
chúng ta ph
ải có tầm nhìn. Chúng ta phải có khả năng nhìn thấy và dành năng lượng cho “cái
cách mà chúng ta mu
ốn”. Chương 14 phác thảo những gì chúng ta cần phải làm để hiện thực
hóa t
ầm nhìn và đòi lại di sản tự do của chúng ta.
Ch
ủ đề tiêm chủng được coi là gây tranh cãi. Tuy nhiên, tranh cãi (controversy) là gì? Nó
xu
ất phát từ tiếng Latin với nghĩa là “quay ngược lại”. Một điều gây ra tranh cãi là do nó
quay
ngược lại một cấu trúc thống trị, trong trường hợp này, là Y học chính thống. Trong một
xã h
ội tự do và cởi mở sẽ không có những từ như “gây tranh cãi”, sẽ chỉ là những bất đồng
trong m
ột diễn đàn mở của các ý tưởng và lựa chọn. Sẽ không có một luồng chính mà thay
vào đó là nhiều luồng, mỗi cái đáp ứng một nhu cầu khác nhau.
Tương tự như vậy với từ thay thế như trong Y học thay thế (Alternative Medicine). Liệu ta có
th
ể gọi tiếng Tây Ban Nha là “tiếng Anh thay thế”? Rõ ràng đây là một loại chủ nghĩa độc tôn
h
ợm hĩnh.
Đôi lời về bản thân: Tôi là một cựu giáo viên Tiếng Anh tại một trường trung học ở thành
ph
ố Los Angeles, không phải là một chuyên gia Y tế. Điều này tôi coi như là một lợi thế, bởi
tôi không có nhi
ều năm bị nhồi nhét theo một quan điểm cụ thể nào đó để rồi lại phải mất
công g
ạt bỏ, cũng không có chuyện việc làm hay giấy phép hành nghề của tôi có thể bị đe
d
ọa khi tôi phát biểu quan điểm của mình. Ngài John Holt quá cố, một nhà giáo dục nhân văn
hàng đầu, đã tự hào khi nói rằng ông không bao giờ tham gia một khóa học nào. Ông cảm
th
ấy mình có lợi thế là nhận thức của ông không không bị che khuất bởi nhiều định kiến và
quan ni
ệm sai lầm.
V
ề một số thách thức khi viết cuốn sách này: Thứ nhất, thách thức lớn nhất, tất nhiên, là làm
cho nh
ững thuật ngữ về kỹ thuật trở nên đơn giản và thú vị. Do đó tôi đã định nghĩa một vài
thu
ật ngữ khi cần thiết để sử dụng chúng; tuy nhiên, tôi đã hạn chế việc sử dụng thuật ngữ Y
h
ọc ở mức ít nhất có thể, chỉ giữ lại đủ để cung cấp cho người đọc một cảm giác của sự xác
th
ực và hương vị của “ngành Y”. Thứ hai, mặc dù tôi chỉ ra một số sai lầm trong việc lập
lu
ận dựa vào số liệu thống kê, tôi vẫn sử dụng chúng. Tại sao? Bởi vì chúng là công cụ, và
các con s
ố vẫn gây ấn tượng với mọi người. Tuy vậy tôi vẫn cố gắng để sử dụng một số
lượng vừa đủ các ví dụ để minh họa cho quan điểm của tôi, mặc dù tôi có thể trích dẫn nhiều
hơn nữa. Thứ ba, vì vị trí “nhạy cảm” của một số người được đề cập trong cuốn sách này, tôi