142
m
ối đe dọa sức khỏe cộng đồng lớn nhất của thế kỷ: bệnh AIDS”, viết bởi Bob Owen trong
s
ố ra tháng tám năm 1992 của tạp chí Y tế Tỉnh thức (Health Consciousness). Trong số những
người tham dự là “hơn ba mươi nhà khoa học nổi tiếng, bác sĩ, người đang hành nghề, bệnh
nhân và các nhà báo – cùng v
ới gần 400 khán giả hết sức quan tâm”.
V
ới tiêu đề “AIDS: Một cách nhìn khác” bài báo tiếp tục nói “mục đích được công bố trong
H
ội nghị chuyên đề, diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 5 năm 1992, là xác định và thảo
lu
ận các nguyên nhân của hội chứng và các yếu tố có liên quan”. Một số điểm nổi bật của các
bài thuy
ết trình là: (1) việc bác bỏ giả thuyết HIV-AIDS của sinh học phân tử bởi dịch tễ học,
và b
ởi giả thuyết đầu tiên của Koch (để kết luận một vi sinh vật cụ thể gây ra một bệnh cụ thể
thì vi sinh v
ật đó phải được phát hiện ở tất cả các trường hợp của bệnh ); (2) những bằng
ch
ứng đang xuất hiện ngày càng nhiều cho rằng bệnh giang mai là yếu tố dẫn đến hoặc đồng
y
ếu tố trong việc ức chế miễn dịch của bệnh AIDS; (3) tầm quan trọng của dinh dưỡng trong
vi
ệc tác động đến chức năng miễn dịch; và (4) ý nghĩa của các loại thuốc, cả về giải trí (ma
túy) l
ẫn được kê đơn, bao gồm cả các loại thuốc dùng để điều trị căn bệnh này, như là nguyên
nhân th
ực sự của AIDS. Ý kiến cuối cùng được thể hiện bởi Peter Duesberg, giáo sư sinh học
phân t
ử tại Đại học California và một trong những nhà vi sinh học hàng đầu thế giới, là một
trong nh
ững người thẳng thắn nhất trong các nhà hoạt động chống HIV:
“Nguyên nhân c
ủa AIDS không phải là hoạt động tình dục hoặc có liên quan đến các bệnh
nhi
ễm trùng do vi rút hay vi khuẩn – các loài vi sinh vật mà chúng ta đã học được cách sống
chung trong ba t
ỷ năm”, Duesberg nói. “Các thuốc thần kinh tự nhiên và tổng hợp là tác nhân
gây b
ệnh mới duy nhất, xuất hiện khoảng từ những năm 1970, và có một hội chứng bệnh xuất
hi
ện là AIDS, và cả hai đều được phát hiện trong cùng các quần thể dân số”. “Việc sử dụng
thu
ốc trong thời gian dài”, ông nói với hội thảo viên, “là nguyên nhân trung tâm của sự rối
lo
ạn chức năng của hệ miễn dịch”.
Duesberg và nh
ững người khác tại hội nghị - những người thách thức các giả thuyết HIV-
AIDS –
đã được sự ủng hộ của một số các nhà nghiên cứu khác trên khắp thế giới, những
người đã quan sát thấy rằng nhiều người hoàn toàn khỏe mạnh có kết quả xét nghiệm dương
tính v
ới HIV, và nhiều trường hợp hoàn toàn bị mắc AIDS lại có HIV âm tính [34]. (Việc xét
nghi
ệm bệnh AIDS không phát hiện vi rút HIV mà là để tìm kháng thể của nó).
Gi
ống như vi rút cúm được cho là nguyên nhân gây ra đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918,
vi rút HIV là m
ột cư dân bình thường trong máu của chúng ta [35]. Nhưng mô hình y tế (hay
phép ch
ữa đối chứng trị liệu) lại đòi hỏi những nguyên nhân đơn nhất. Thay vì hỏi rõ ràng, đó
là, các y
ếu tố kèm theo hoặc các khuynh hướng nào của vật chủ làm cho những loại vi rút này
tr
ở thành có hại? thì mô hình y tế lại kiếm lấy một kẻ thù cực nhỏ để tấn công. Cái tên AIDS,
có nghĩa là mắc phải hội chứng suy giảm miễn dịch, tự nó đã trả lời các câu hỏi. Cái tính chất
c
ủa vật chủ mà đã làm cho các vi rút đột biến thành dạng có hại là một hệ miễn dịch bị suy
y
ếu hoặc bị hư hỏng.
Điều gì làm cho hệ miễn dịch trở nên suy yếu đến mức mà một bệnh nhiễm trùng cơ hội (cơ
h
ội có nghĩa là lợi dụng một hệ miễn dịch hoạt động kém) như bệnh AIDS có thể bắt đầu