TIÊM CHỦNG SỰ THỰC ĐẰNG SAU SỰ HUYỀN BÍ - Trang 144

144

M

ẩu tin: John Kuivenhoven bị chẩn đoán nhầm là bị AIDS. Ông ngừng làm việc, và trong

sáu năm qua, ông sống trong một thế giới biệt lập của thuốc thử nghiệm và các tác dụng phụ
đau đớn của chúng, chờ đợi để chết. Cuối cùng, khi ông phát hiện ra mình chưa bao giờ bị
AIDS, thì s

ức khỏe của ông đã suy sụp và sức sống của ông đã bị mất [44].

“N

ếu sự thật được biết đến thì có lẽ nhiều người bị chết vì việc điều trị căn bệnh này hơn

chính căn bệnh”, nhà văn và nhà nghiên cứu Michael Culbert nói [45]. Hậu quả của các thuốc
độc hại, ức chế miễn dịch như AZT, kết hợp cùng với việc chuẩn đoán tiêu cực - cũng mang
tính

ức chế miễn dịch nhưng lại “đúng đắn về chính trị” - có thể dễ dàng gây ra các trường

h

ợp tử - vong - do - điều - trị mặc dù vẫn được ghi nhận là tử - vong - do - AIDS. Liệu điều

này

cũng đúng với nhiều bệnh khác?

Các lo

ại thuốc giải trí như cần sa, cocaine, heroin được biết đến như các tác nhân triệt hạ

mi

ễn dịch, cũng như là những chất kích thích [46], nhưng một trong số các tác nhân triệt hạ

mi

ễn dịch mạnh nhất là “poppers”, các loại thuốc hít nitrite như amyl nitrite và nitrite

isobutyl, được sử dụng bởi nhiều người đồng tính nam như một tác nhân kích thích cực khoái
và giãn cơ. Điều này đã được đề xuất như là một lời giải thích cho việc có một tỷ lệ rõ ràng
cao hơn của những người đồng tính nam mắc AIDS ở Hoa Kỳ [47]. Những người khác sẽ nói
r

ằng đó là nguyên nhân chính, nếu không phải là nguyên nhân thực sự, của tỷ lệ mắc AIDS

cao hơn trong số những người đồng tính nam.

2. S

ự liên quan của Vắc – xin

Như chúng ta đã được biết ở Chương 2, chương trình tiêm chủng phổ thông, đặc biệt là
nh

ững loại vắc – xin có chứa vi rút sống, đã được cho là có liên quan rõ ràng tới sự gia tăng

c

ủa các bệnh về rối loạn miễn dịch và thần kinh trong 40 – 50 năm qua. Chúng ta cũng được

bi

ết bởi hiện tượng transcession rằng các vắc – xin này làm việc theo cách ức chế miễn dịch.

Các hóa ch

ất độc hại được sử dụng làm chất bảo quản và các protein ngoại lai từ mô động vật

mà t

ừ đó vi rút được nuôi cấy cũng bổ sung thêm vào các hiệu ứng ức chế miễn dịch.

Vào th

ời điểm này có ba loại vắc – xin đặc biệt liên quan đến sự bùng nổ đại dịch AIDS: vắc

– xin b

ại liệt, đậu mùa và viêm gan B. Hãy bắt đầu với vắc – xin bại liệt.

“AIDS: H

ội chứng liên quan đến Tiêm chủng” là tựa đề của một câu chuyện trang bìa trên ấn

b

ản tháng 7 năm 1987 của Tạp chí Health Freedom News [48]. Tác giả của nó, bác sĩ Eva

Lee Snead, mô t

ả nghiên cứu mang tính đột phá của mình liên kết các lô vắc – xin bại liệt bị

nhi

ễm bẩn với bệnh AIDS. Các lô vắc – xin đó bị nhiễm loại “bẩn” gì? Một vi rút, Simian Vi

rút – 40 hay SV –

40, được phát hiện trong các mô của loài khỉ xanh châu Phi. Hãy nhớ lại

r

ằng vi rút bại liệt đã được nuôi cấy trên tế bào thận của khỉ. Vi rút này, tương tự như HIV, là

m

ột tác nhân ức chế miễn dịch mạnh mẽ, bác sĩ Snead nói, và là một yếu tố kích hoạt của

HIV. Nó gây ra m

ột hội chứng lâm sàng không thể phân biệt với AIDS cũng như các dị tật

thai nhi, b

ệnh bạch cầu và các u ác tính khác.

Hơn 30 năm trước, tôi có đọc những câu chuyện “kinh dị” về cuộc thảm sát hàng nghìn –
chính xác là 50.000 n

ếu tôi nhớ không nhầm – các con khỉ để làm vắc – xin Salk, và bây giờ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.