165
1. Li
ều lượng của vi lượng đồng căn là nhỏ hơn nhiều so với của vắc – xin; trong thực
t
ế, các thuốc vi lượng đồng căn được pha loãng đến độ không có dấu vết của thuốc
ban đầu – chỉ còn là một mô hình năng lượng. (Điều này đạt được bởi một quá trình
được gọi là “tiềm tàng hóa”(potentization), trong đó năng lượng tiềm ẩn trong một
ch
ất được giải phóng bởi sự pha loãng và khuấy liên tiếp). Vì vậy, các liều của vi
lượng đồng căn về cơ bản là một liệu pháp năng lượng được thiết kế để khơi dậy và
c
ủng cố năng lượng chữa lành tự nhiên hay lực sống của cơ thể. Nó không nhắm vào
các vi sinh v
ật hoặc muốn tiêu hủy chúng mà là hướng tới bệnh nhân và tìm cách gia
tăng sức sống của người đó.
2. Phương pháp vi lượng đồng căn là toàn diện; nó chú tâm đến sự duy nhất của bệnh
nhân cũng như là sự toàn vẹn của người đó. Các bệnh nhân được đối xử như một thực
th
ể có tinh thần và tâm linh cũng như là được nghiên cứu và điều trị như một sinh vật.
[vi
ệc điều trị và kê đơn tập trung, chẳng hạn như những quy định của pháp luật về
tiêm ch
ủng bắt buộc, sẽ là trái với triết lý và lý tưởng của vi lượng đồng căn).
3. Các bác sĩ vi lượng đồng căn thường không sử dụng thuốc tiêm. Nó là trái với triết
lý vi lượng đồng căn “vi phạm sự toàn vẹn của cơ thể bằng cách đưa thuốc vào cơ thể
m
ột cách ép buộc không dùng cách kênh dẫn tự nhiên” [8].
Các bác sĩ vi lượng đồng căn tuy vậy có thể sử dụng các thuốc chủng ngừa qua đường cho
u
ống. Một số ít các chế phẩm được làm suy yếu và vô hại này có thể được sử dụng như các
tác nhân phòng ng
ừa cho hầu hết các bệnh dễ lây nhiễm nhất cũng như để chống lại các tác
d
ụng phụ không mong muốn của các kháng nguyên chủng ngừa thông thường.
M
ột cảm giác hài hòa, thân thiết, và việc trao quyền cho cá nhân được thúc đẩy bởi các triết
lý c
ủa vi lượng đồng căn. Nó chấp nhận rằng có một thực thể tạo ra và duy trì cơ thể vật lý.
Nguyên t
ắc hoạt động của thực thể này là luật đối ứng hành động, hay còn gọi là luật của sự
cân b
ằng. Nó còn được gọi với các tên khác như luật bù đắp, nhịp điệu, phân cực, rung động,
hay ch
ỉ đơn giản là hành động – phản ứng (action – reaction), và nó phát huy tác dụng trong
các lĩnh vực tinh thần và tâm linh cũng như trong thế giới vật chất. Biểu hiện của thực thể
này là Lu
ật của tình yêu, mà luôn luôn mang đến ích lợi, sự sáng tạo và hài hòa. “Do đó, các
bác sĩ nhất quán với vi lượng đồng căn sẽ không bao giờ sử dụng, và không có nhu cầu sử
d
ụng, bất kỳ tác nhân gây khó chịu, làm suy yếu, buồn phiền, lây nhiễm, hoặc gây tổn hại nào
trong vi
ệc điều trị bệnh nhân” [9].
Có l
ẽ ranh giới của tất cả các trường phái chữa bệnh tự nhiên là Thiên Nhiên Liệu Pháp
(naturopathy), hay là Bài Thu
ốc Tự Nhiên (Nature Cure), như nó được biết đến ở Anh.
“Thu
ốc” ở đây là những thứ như ánh nắng mặt trời, không khí trong lành, nước tinh khiết, các
lo
ại thực phẩm tự nhiên, và những khoảng thời gian đều đặn làm sạch bên trong thông qua
vi
ệc chỉ uống nước trái cây hoặc nước lã và rửa ruột. Các liệu pháp như chỉnh hình và bấm
huy
ệt, thuốc thảo dược và vi lượng đồng căn không độc hại, và thủy liệu pháp (dùng nước
ch
ữa bệnh) cũng là một phần của “bộ công cụ” của thiên nhiên liệu pháp. Gần đây, mống mắt
h
ọc (iridology), khoa học về việc đọc mức độ hoạt động tại các mô của các cơ quan khác