32
Vi – rút s
ống, vật liệu kháng nguyên chính của vắc – xin, có khả năng sống sót hoặc nằm
dưới dạng tiềm ẩn trong tế bào chủ nhiều năm mà không gây ra bệnh cấp tính. Chúng làm
điều này bằng cách gắn các vật liệu di truyền của mình như một hạt bổ sung hoặc “episome”
v
ới bộ gen (một nửa bộ nhiễm sắc thể và gen của chúng) của tế bào chủ và nhân rộng cùng
v
ới nó. Điều này cho phép các tế bào chủ tiếp tục chức năng bình thường của mình đối với
h
ầu hết các phần nhưng bổ sung thêm vào đó những hướng dẫn cho quá trình tổng hợp
protein c
ủa vi rút [32]. “Sự tồn tại của vi rút sống hoặc những kháng nguyên ngoại lai khác
trong các t
ế bào chủ do đó không thể không kích thích hiện tượng tự miễn dịch, bởi vì việc
tiêu di
ệt các tế bào bị nhiễm bệnh bây giờ là cách duy nhất để có thể loại bỏ những kháng
nguyên
đang liên tục khiêu khích này ra khỏi cơ thể” [33]. “Một số chứng bệnh được cho là
có
liên quan đến các hiện tượng tự miễn dịch là herpes, zona, mụn cóc, các khối u (cả lành
tính l
ẫn ác tính) và các bệnh của hệ thống thần kinh trung ương như các biểu hiện khác nhau
c
ủa bệnh bại liệt và viêm não” [34].
N
ếu các thành phần của hệ miễn dịch được thiết kế để giúp sinh vật phân biệt giữa “bản thân”
và “ngo
ại lai”, như một số nhà nghiên cứu tin tưởng, thì khi đó những vi rút tiềm ẩn, các hiện
tượng tự miễn dịch và bệnh ung thư sẽ có vẻ như, theo bác sĩ Moskowitz, là những biểu hiện
khác nhau c
ủa sự thất bại của hệ miễn dịch, khi nó không thể nhận ra các tế bào của mình
m
ột cách rõ ràng hoặc loại bỏ một cách dứt khoát các ký sinh trùng ngoại lai [35]. Một cách
tương tự, chúng ta có thể nói rằng việc mất khả năng phân biệt giữa các chất có hại và vô hại
c
ủa hệ miễn dịch trong môi trường cơ thể, như trường hợp của bệnh dị ứng, là một khía cạnh
khác c
ủa sự thất bại của hệ miễn dịch.
Các t
ế bào bị nhiễm các vật liệu của vi rút, đặc biệt là RNA của vi rút tích hợp với DNA của
t
ế bào, được gọi là tiền vi rút hoặc là các phân tử trung gian. Những tiền vi rút có thể nằm im
lìm trong các t
ế bào khắp cơ thể và được kích hoạt ở giai đoạn sau, gây ra các bệnh thoái hóa
mà đã được trích dẫn trước đó. Tuy vậy, vi rút sống trong vắc – xin không phải là vấn đề duy
nh
ất. Chúng ta biết rằng việc chuyển giao thông tin di truyền xảy ra giữa (1) vi khuẩn của các
loài khác nhau, (2) vi khu
ẩn và thực vật và động vật bậc cao, và (3) các tế bào của sinh vật
b
ậc cao. Quá trình gieo vật liệu di truyền (DNA và RNA) bởi các tế bào của cùng một loài và
s
ự hấp thu sau đó bởi các loài khác được gọi là transcession. Một trong những câu hỏi được
đặt ra là, có phải transcession từ vi khuẩn đến các tế bào của chúng ta giải thích cho hiện
tượng suy tim có thể xảy ra sau khi sốt thấp khớp hay các bệnh nhiễm khuẩn tương tự? Tức
là, có ph
ải hệ miễn dịch đang phản ứng với các tế bào riêng của mình, tạo ra một RNA ngoại
lai [36]?
Transcession gi
ải thích lý do tại sao hệ miễn dịch của cơ thể không thể phân biệt giữa kẻ xâm
lược từ bên ngoài và các mô của nó và bắt đầu tiêu diệt chính nó. Hiện tượng tự miễn dịch
này, mà tiêu bi
ểu là các bệnh thoái hóa như ung thư, bệnh bạch cầu, đa xơ cứng, và viêm
kh
ớp dạng thấp, đã làm bác sĩ Mendelsohn tự hỏi, “Liệu chúng ta đã từ chối bệnh quai bị và
b
ệnh sởi để rồi nhận lấy bệnh ung thư và bệnh bạch cầu?”[37]. Thực tế là bác sĩ Mendelsohn
đã gọi tiêm chủng như những quả bom của thời đại y tế.