53
Trước khi một mối quan hệ nhân quả có thể được thiết lập giữa hai sự kiện bất kỳ, các tiêu
chí sau đây phải được thỏa mãn:
1. Ki
ểm soát. Có một nhóm kiểm soát nào không? Cái gì đã được sử dụng để điều khiển?
2. Các bi
ến. Có những biến gì? Chúng có được kiểm soát?
3.
Kích thước và thời gian. Số lượng người tham gia và thời gian thử nghiệm liệu có thỏa
đáng?
Nói cách khác, khi m
ột mối quan hệ nhân quả được ngụ ý, chúng ta phải tự hỏi mình, rằng
nh
ững yếu tố nào khác có liên quan, và có các yếu tố kiểm soát nào?
B
ại liệt
Hãy nhìn vào b
ản thân cách thức xử lý số liệu thống kê. Trường hợp của bệnh bại liệt là một
bài h
ọc đặc biệt bởi sự suy giảm rõ ràng của nó không thể được giải thích bằng những sự tiến
b
ộ như vệ sinh môi trường, nguồn cung cấp nước công cộng, và thông gió. Trong thực tế nó
là
căn bệnh chỉ xảy ra ở các dân tộc văn minh nhất với những tiêu chuẩn cao nhất về vệ sinh
môi trường, và do đó không xuất hiện trong các xã hội sơ khai chưa bị ảnh hưởng bởi nền văn
minh hi
ện đại.
Jonas Salk, người khám phá ra vắc – xin bại liệt Salk, được gọi là “người tạo ra phép mầu của
th
ế kỷ XX” và vị cứu tinh của vô số mạng sống [6]. “Chúng tôi đọc các báo cáo đầy lạc quan
v
ề sự sụt giảm đáng kể của bệnh bại liệt ở Hoa Kỳ như là một kết quả của vắc – xin Salk. Ví
d
ụ, sở Y tế bang Virginia đã phân phát một tệp tài liệu cho chúng ta biết rằng vắc – xin bại
li
ệt đã giảm tỷ lệ mắc bệnh bại liệt ở Hoa Kỳ từ 18.000 ca bại liệt vào năm 1954 xuống ít hơn
20 trong kho
ảng những năm 1973-1978. Một bài báo gần đây ở tạp chí Modern Maturity nói
r
ằng vào năm 1953 đã có 15.600 trường hợp mắc bại liệt tại Hoa Kỳ; năm 1957, do bởi vắc –
xin Salk, con s
ố này đã giảm xuống còn 2.499 [7].
Trong các phiên điều trần của Quốc hội năm 1962 về H.R. 10.541, Bác sĩ Bernard Greenberg,
người đứng đầu Cục thống kê sinh học của Trường Y tế công cộng thuộc Đại học Bắc
Carolina, đã làm chứng rằng không chỉ bệnh bại liệt đã tăng lên đáng kể (50% từ năm 1957
đến năm 1958 và 80% từ năm 1958 đến năm 1959) sau khi có sự xuất hiện của hàng loạt các
chương trình tiêm chủng thường xuyên và bắt buộc, mà các thống kê đã được chế tác bởi các
d
ịch vụ y tế công cộng để tạo ấn tượng đối với công chúng [8].
Ví d
ụ, vào năm 1957 một phát ngôn viên của Sở Y tế Bắc Carolina đã đưa ra những tuyên bố
kh
ả quan về sự hiệu quả của vắc – xin Salk, rằng bệnh bại liệt đã giảm đều từ năm 1953 đến
năm 1957. Các số liệu này đã bị Bác sĩ Fred Klenner nghi ngờ. Ông chỉ ra rằng mãi cho đến
năm 1955 mới có một người duy nhất trong tiểu bang được tiêm vắc – xin bại liệt. Thậm chí
sau đó, thuốc tiêm được quản lý trên cơ sở rất hạn chế bởi có nhiều trường hợp mắc bệnh bại
li
ệt sau khi tiêm vắc – xin. Mãi cho đến năm 1956 “rằng việc tiêm phòng bệnh bại liệt mới