55
c
ủa California không có một trường hợp bệnh bại liệt nào, trong khi có một dấu hoa thị kèm
theo gi
ải thích, ‘Tất cả những trường hợp như vậy bây giờ được báo cáo là viêm màng não’”.
Đã có ít nhất ba dịch bại liệt lớn tại Hoa Kỳ, theo Bác sĩ Christopher Kent. “Một xảy ra trong
thanh thi
ếu niên, một trong những năm cuối tuổi ba mươi, và gần đây nhất trong những năm
c
ủa tuổi năm mươi”. Hai dịch đầu tiên chỉ đơn giản qua đi như cách mà bệnh dịch hạch đã
x
ảy ra. Khoảng năm 1948, tỷ lệ mắc bệnh bại liệt bắt đầu tăng mạnh. (Thật thú vị, đây là khi
v
ắc – xin ho gà xuất hiện, Bác sĩ Kent chỉ ra). Nó đạt mức cao trong năm 1949, với 43.000
trường hợp, nhưng đến năm 1951 đã giảm xuống dưới 28.000. Năm 1952, khi một nghiên
c
ứu được trợ cấp của chính phủ về vắc – xin bại liệt bắt đầu, tỷ lệ đó đã tăng vọt lên mức cao
nh
ất mọi thời đại với hơn 55.000 trường hợp. Sau nghiên cứu đó số lượng các trường hợp
gi
ảm trở lại và tiếp tục giảm như trong các dịch trước đó. “Lần này, tuy vậy, vắc – xin đã
nh
ận lấy công lao chứ không phải là tự nhiên” [12].
Tính chu k
ỳ của bệnh bại liệt một lần nữa được minh họa bởi những nhận xét của bác sĩ Alec
Burton t
ại cuộc họp năm 1978 của Hội Vệ sinh Tự nhiên ở Milwaukee, Wisconsin. Một vài
năm trước đây tại trường Đại học New South Wales ở Australia, số liệu được biên soạn cho
th
ấy rằng chủng ngừa bệnh bại liệt được sử dụng ở thời điểm đó không có ảnh hưởng gì đến
tình hình d
ịch bệnh bại liệt. Dù sao thì bệnh bại liệt cũng đến theo chu kỳ, bác sĩ Burton nói,
và m
ột khi nó đã bị “chế ngự” bởi vắc – xin, và một bệnh với các triệu chứng giống như thế
ti
ếp tục xuất hiện, các bác sĩ sẽ tìm kiếm một loại vi rút mới, vì họ biết bệnh cũ đã bị “xóa
s
ổ”. “Và trò chơi cứ thế tiếp diễn” ông nói thêm [13].
Khi bác
sĩ Robert Mendelsohn được hỏi về khả năng của sự quay trở lại của các bệnh thời thơ
ấu – đặc biệt là bệnh bại liệt – nếu như chương trình tiêm chủng được dừng lại, ông trả lời:
“Các bác sĩ thừa nhận rằng 40% dân số của chúng ta không được tiêm phòng bại liệt. Vậy
b
ệnh bại liệt ở đâu? Bệnh tật giống như thời trang, chúng đến và đi, giống như dịch cúm năm
1918” [14].
Trong m
ột chương trình mang tên Donahue năm 1983 (“Những nguy hại của Chủng ngừa trẻ
em”, ngày 12 tháng 1), bác
sĩ Mendelsohn chỉ ra rằng bệnh bại liệt đã biến mất ở châu Âu
trong nh
ững năm 1940 và 1950 mà không cần tiêm phòng đại trà, và rằng bệnh bại liệt đã
không x
ảy ra trong Thế giới thứ ba, nơi chỉ có 10 % dân số được chủng ngừa bệnh bại liệt
hay b
ất cứ bệnh gì khác.
Quay tr
ở lại các phiên điều trần của Quốc hội đã được nhắc đến trước đó (HR 10.541), chúng
ta th
ấy trong năm 1958 Israel đã có một dịch bại liệt lớn thuộc “loại I” sau khi có tiêm chủng
hàng lo
ạt. Không có sự khác biệt về phòng vệ giữa những người được tiêm phòng và chưa
tiêm phòng. Năm 1961, Massachusetts đã có một dịch bại liệt bùng nổ “loại III” và “có nhiều
trường hợp liệt hơn ở những người tiêm vắc – xin bộ ba so với những người không tiêm”.
[15]
Trong m
ột bức thư được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ (JAMA), ngày 21
tháng 1 năm 1956, mà cũng đã được đưa vào các buổi điều trần, Bác sĩ Herbert Ratner chỉ ra
r
ằng vì bệnh bại liệt là một bệnh có tỷ lệ mắc phải thấp như vậy, nên nó làm phức tạp thêm