phần cấu tạo nên anh ấy cũng như xương máu vậy. Phải đến khi mất
nó anh ấy mới nhận ra điều đó.
“Tôi nên đi thì hơn,” tôi thì thầm với Adam.
“Cô ở lại đây,” anh ấy nói cứng, không thèm thì thầm. Mọi cái đầu
quay qua nhìn chúng tôi.
Tất cả chúng tôi đều ngồi trong bồn chồn, lo lắng: Adam và tôi ngồi
trên một chiếc ghế sô pha bọc da màu nâu, trên ghế còn lại là Lavinia
và Maurice, luật sư đã bảo lãnh hắn ra trong vòng chỉ một tiếng hay cỡ
đó. Hắn ta trông như sắp sửa bị đột quỵ tới nơi: mắt đỏ ngầu, mặt
chùng xuống vì kiệt sức, da dẻ thì khô khốc và dơ dáy.
Lý do mọi người căng thẳng là vì dù Adam tin rằng, và đã được bảo
rằng chiếc ghế đó sẽ được truyền lại cho anh nhưng giờ đứa con
trưởng, Lavinia đã quay về và có quyền ưu tiên. Thêm vào đó, không
ai biết chị ta có thể đã làm gì để bảo đảm tương lai cho mình trong khi
bố chị ta còn nằm trên giường bệnh. Như vậy bây giờ Adam thì muốn
công việc đó còn Lavinia thì khao khát nó hơn bất kỳ thứ gì.
Arthur May, vị luật sư, đằng hắng. Một người đàn ông bảy mươi
tuổi với mái tóc bạc dài gợn sóng vén ra sau tai, bóng loáng gel vuốt
tóc, cùng một bộ râu như của lính ngự lâm, ông ấy đã học cùng trường
nội trú với Dick Basil và là một trong rất ít người mà ông ta tin tưởng.
Không khí im lặng một lúc khi ông ấy nhìn quanh để đảm bảo tất cả
mọi người đều đã chú ý vào mình, sau đó ông ấy bắt đầu đọc to di
chúc bằng một giọng rõ ràng, gãy gọn và có uy, chứng tỏ rõ ràng đây
là một người không nên tranh cãi cùng. Khi ông ấy đọc đến đoạn mà
theo như di nguyện của Richard Basil và theo tờ di chúc cuối cùng và
chúc thư của Bartholomew Basil, Adam Richard Bartholomew Basil
sẽ tiếp quản công ty Basil và trở thành CEO, Lavinia nhảy dựng khỏi
ghế và rít lên. Không có từ ngữ nào đặc biệt, chỉ là những tiếng la hét
chói tai nhưng thể chị ta là một người đàn bà bị buộc tội là phù thủy
và bị cột vào giàn thiêu.