“Con bé biết rồi kìa,” Adrienne kêu lên.
“Đi đi Christine,” Brenda giục tôi.
Tôi giở vạt váy lên và chạy. Mang giày cao gót chạy chẳng dễ dàng
gì nhưng bị găm mảnh kính vô chân cũng không phải là lựa chọn tôi
mong muốn. Càng không muốn nhảy vào xe Pat đang đậu bên ngoài.
Tôi cần phải rẽ phải sang đường Parliament để đến cây cầu, mà đó là
đường một chiều. Pat sẽ chỉ đưa tôi ra xa khỏi cây cầu khi cố đến gần
nó thôi. Chúng tôi không có thời gian. Tôi chạy ào vào màn trời lạnh
giá, một tay ôm lấy cái khăn choàng giả lông thú, tay kia kéo váy. Tôi
chạy hết đường Parliament rồi chạy lên Bến tàu Wellington, thu hút vô
số ánh mắt và lời xì xào của những người đang tán dóc vào tối thứ
Bảy. Tôi nhìn thấy cây cầu đằng xa nhưng không thấy được ai trên đó.
Tôi chạy tiếp, mũi rát bỏng vì lạnh khi tôi hít thở, ngực tôi cũng rát
bỏng khi tôi gấp gáp hít không khí vào người. Khi đến gần cây cầu
hơn, tôi nhìn thấy anh ấy. Ở đúng vị trí chúng tôi gặp nhau hai tuần
trước, một hình thù mặc đồ đen, đứng dưới ánh đèn vàng của ba chiếc
đèn đường, những ngọn đèn chĩa lên màu xanh lá cây rọi vào anh và
cây cầu bằng thứ ánh sáng kì dị. Dù mệt lử nhưng tôi vẫn cố moi chút
sức tàn từ sâu trong người và phóng đến cây cầu. Tôi chạy lên những
bậc thang.
“Adam!” tôi hét lên, và anh ấy quay lại nhìn tôi, giật mình. “Đừng
làm thế mà, xin anh!”
Anh ấy nhìn tôi, mặt hiện lên sự lo lắng, buồn bã, ngạc nhiên.
“Tôi sẽ không đụng đến anh đâu, tôi sẽ không đến gần hơn, được
chứ?”
Người cứ đi ngang qua cầu, không chắc phải làm gì, tụ tập lại thành
một vòng tròn lớn quanh Adam, e sợ, như thể anh ấy là một quả mìn.
Tôi đang khóc. Lúc phóng lên cầu tôi đã dợm chảy nước mắt rồi và
giờ đứng trước mặt anh thế này, tôi vỡ òa ra nức nở, lạnh, run, hụt hơi,
yếu ớt.
Anh không nói tiếng nào.