là phi lý; lý do duy nhất khiến tôi còn chịu được chúng là biết chúng
không có thật.
“Cô nghe rồi đó,” chị ta lặp lại, kéo hai đứa con vào trong phòng để
chừa trống đường cho tôi đi.
Tôi hóa đá tại chỗ, chuyện này đang không xảy ra. Phải đến khi
Adam đặt một tay lên vai tôi và đẩy nhẹ tôi mới tỉnh lại. Chúng tôi
không nói năng gì cả cho đến khi đã vào trong xe và chạy trên đường.
Adam há miệng tính nói nhưng tôi đã lên tiếng trước.
“Tôi không muốn nói về chuyện đó.” Tôi cố không khóc.
“Được rồi,” anh ta nhẹ nhàng nói, rồi nhìn như muốn nói thêm điều
gì nhưng tự ngăn mình lại và nhìn ra cửa sổ.
Ước gì tôi biết anh ta định nói gì.
Tôi lớn lên ở Clontarf, một khu ngoại ô ven biển ở phía Bắc Dublin.
Khi gặp Barry, tôi đồng ý chuyển đến Sandymount ở phía bên kia
thành phố, nơi anh ấy sống. Chúng tôi sống trong căn nhà đầy đủ tiện
nghi của anh ấy vì anh ấy muốn ở gần mẹ mình. Bà ấy không thích tôi
vì tôi theo đạo Tin Lành, mặc dù tôi không ngoan đạo là mấy – tôi
không chắc chuyện nào khiến bà ấy khó chịu hơn. Sau sáu tháng hẹn
hò, Barry cầu hôn tôi, có thể là do thời điểm đó tất cả những người
bằng vai phải lứa chúng tôi đều làm thế, và tôi nhận lời vì đó là điều
những người bằng vai phải lứa làm, và đó dường như là một chuyện
chín chắn và trưởng thành để làm ở tuổi chúng tôi. Rồi sáu tháng sau,
tôi kết hôn và sống trong một căn hộ mới chúng tôi cùng nhau tậu ở
Sandymount, một buổi tiệc tân gia tưng bừng đã được tổ chức, sau đó
là hiện thực và quãng thời gian đằng đẵng tưởng như không dứt phía
trước. Công việc của tôi vẫn ở Clontarf, sáng sáng chỉ cần đáp chuyến
tàu điện ngắn. Barry không bán được căn hộ sống hồi còn độc thân
nên đành cho thuê; tiền thuê dành để trả tiền thế chấp. Nếu Barry quay
lại căn hộ đó, nơi mà anh ấy đã vui biết bao nhiêu khi rời khỏi thì đã
có thể giải quyết rất nhiều vấn đề giữa chúng tôi. Như vậy tôi có thể