được phép vào trước khi các lớp rèm trên xe được xăm cẩn thận , và không
một người nào dù đi bộ hay cưỡi ngựa được phép vào trước khi được đo và
khám xét kỹ lưỡng.
Anh chàng hủi lang thang vẫn chưa được tìm ra , nhưng cả Pari đều nghe
tiếng y và khiếp sợ y như sợ một bóng ma. Mặt y đặc biệt dễ sợ vì lúc nào y
cũng choàng một tấm vải liệm và đội mũ thầy tu. Một viên cảnh sát tóm
được y vào một đêm khuya , nhưng không có can đảm nhấc chiếc mũ ấy lên
, và con ma đó đã biến đi trước khi anh ta gọi binh lính gác đêm đến.
Thế rồi những lời banftans về người hủi lang thang bỗng nhiên chấm dứt. Ở
lưu vực con sông bên dưới Mantes, ở Gasicount, người ta tìm thấy xác một
người đàn
ông bị chết đuối trước đó ít ra là một tháng. Xác chết đã thối rữa , và chỉ
xác định được rằng đó là xác của một người to lớn
Trung úy Calistrre thở phào nhẹ nhõm và trong một lá thư gửi cho Đức Vua
ông nhận xét rằng ông đã đoán trước câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, vì chỉ
có một kết cục mà thôi , bằng việc chạy trốn người đó đã không biết ơn
lòng từ bi của Đức Vua đã cứu hắn thoát khỏi giàn lửa. Chúa đã chừng phạt
hắn về tội ngạo mạn , bắt hắn phải chịu cái giá buốt của dòng sông. Mọi sự
đều do ý chúa.
- Không! Không ! -Angielic phản đối - Không thể như thế được !
Nàng kinh hoàng không chịu thừa nhận phần kết đau đớn của câu chuyện.
Nàng cố đặt tất cả hy vọng vào mấy dòng chữ mà quan thanh tra của
Gasicourt phụ trách cuộc điều tra về xác chết đã ghi thêm vào :"Một vài
mảnh áo thụng đen còn bám vào lưng hắn ".
Khi trốn khỏi con thuyền , tù nhân chỉ khoác một tấm vải liệm trắng. Nhưng
Arnaud de Caalistrre đã gạch dưới những chữ do chính tay ông viết :"Diện
mạo của người bị chết đuối hoàn toàn không khớp với diện mạo của tù nhân
chúng ta.."
- Thế còn tấm vải liệm thì sao? -Angielic nói to.
Nàng cố sức bảo vệ những hy vọng mong manh chống lại bóng đen của ngờ
vực. Thế rồi toàn thân nàng run sợ. Có