Các Cha cố vội vàng lên đường vì họ thấy ở lại thêm ngày nào là họ có thể
gặp thêm nhiều rắc rối mới. Đố kỵ và giận dữ làm cho các nô lệ sinh bẳn
tính và họ ca cẩm suốt ngày đêm. Họ đã phải đút lót bọn tù trưởng và phản
đạo lúc nào cũng vờ hứa hẹn sẽ giúp đỡ họ.
Cuối cùng đoàn sứ giả và nô lệ đã đi dưới làn mưa đá và những lời chửi rủa
của cả tín đồ Cơ đốc và Hồi giáo.
Lão Caloens than vãn luôn mồm.
- Trời ơi, bao giờ các Cha mới trở lại? Tôi đã bị ruồng bỏ rồi.
Lão tưởng tượng chiếc gậy bịt đồng của Quốc vương đã nện trên cái đầu
hói của lão, và lão chạy một mạch ra vườn cọ để để treo cổ tự tử. Nhưng
Côlanh Paturen đã đến kịp và cắt dây.
- Lão già ơi, chớ có nản lòng - Chàng nói - Tất cả chúng tôi đều cố để làm
cho lão đỡ khổ hơn. Bây giờ chỉ còn có một việc là chạy trốn. Tôi phải ra
đi. Tôi sắp đến ngày tận số rồi. Hiệp sĩ Manta đờ Marmaondin có thể thay
tôi. Nếu lão không cho rằng mình đã quá già thì hãy đi với chúng tôi.
Không phải là
không có lý do xác đáng mà Côlanh đã nhấn mạnh là các Cha cố phải mang
theo đồng hồ đến Meknes. Sau hai tuần lễ đồng hồ không chạy nữa. Một
anh thợ chữa đồng hồ ở Genevan tên là Martin Camisart tình nguyện chữa
đồng hồ cho Quốc vương. Nhưng anh ta cần có một số dụng cụ nhỏ tí tẹo,
phải bằng mọi cách kiếm cho ra. Trước khi đồng hồ lại kêu tích tắc, anh thợ
Genevan có đủ dụng cụ để phá các xiềng xích trên chân tay Côlanh và giải
thoát chàng.
Anh ta cũng phá các xiềng xích của Jean - Jean chú bé thư lại. Sau đó đến
lượt người Venico Piccinico, Hầu tước Kermoeur, một quý tộc ở Brittanly,
Francis Bargus quê ở Arles, Jeans d'Harrosteguy quê ở xứ Bacque, và anh
chàng Tin lành Camisart. Tất cả đều sẵn sàng liều chết trở về xứ sở Cơ đốc
giáo. Lão Caloens cũng đi theo họ, và cả Savary nữa. Lão đã đề xuất nhiều
ý kiến để đánh lừa tên khát máu Mulai Ismail, và cuối cùng đã thương
thuyết phục được những người nô lệ kia là cái bất khả có thể trở thành khả
dĩ.