ban đêm. Tôi đã cố thuyết phục họ nhận một người đàn bà, tuy họ không
muốn. Họ chưa hề thấy một người đàn bà nào trốn thoát cả. Tôi bảo họ là
có bà họ sẽ an toàn hơn vì người ta sẽ cho đây là một đoàn thương nhân chứ
không phải là một đoàn nô lệ.
Angielic mừng quá, cứ vặn vẹo hai bàn tay mãi.
- Ôi, cụ Savary thân mến của tôi. Thế mà tôi cứ trách cụ là cụ đã bỏ mặc tôi
cho số phận.
- Tôi đã có kế hoạch - lão dược sư nói - nhưng chưa thật hoàn chỉnh. Tôi
cần phải đưa bà ra khỏi pháo lũy.
Tôi đã nghiên cứu tất cả các lối ra từ hậu cung đến cung điện. Có một cái
cửa nhỏ không phải lúc nào cũng có người canh gác, ở phía Bắc, trong bức
thành
đối diện với một đống phân cách nghĩa địa Do thái không xa. Bọn nữ tì cho
tôi biết nó dẫn vào một cái sân gọi là "sân bí mật" cách cầu thang hậu cung
mấy bước thôi. Đó là con đường bà sẽ phải theo. Một người trong nhóm sẽ
chờ bà ở bên ngoài. Hơn nữa, bà phải nhớ rằng cái cửa này chỉ có thể mở từ
phía ngoài mà thôi, và chỉ có hai người có chìa khóa: Đại hoạn quan và
Leila Aisheh. Hai người này có thể dùng nó để kịp trở về ngay sau khi tan
hội. Bà sẽ phải lấy trộm chìa khóa và tuồn nó ra ngoài để một người trong
bọn chúng tôi có thể đến mở cửa cho bà.
- Savary - Angielic thở dài - cụ quen dời núi lấp biển rồi nên cái gì đối với
cụ cũng đơn giản. Tôi làm sao có thể lấy trộm chìa khóa của Đại hoạn quan,
làm sao có thể qua mặt con báo..
- Vâng, thế này bà ạ, à mà thôi..
Savary đưa ngón tay lên môi và chuồn thật nhanh với cái làn chà là ở cánh
tay.
Angielic nghe tiếng ngựa phi. Mulai Ismail hiện ra ở lối mòn, chiếc burnous
bay sau lưng, theo sau là hai tù trưởng. Hắn dừng lại khi nhìn thấy chiếc
kiệu dưới gốc cây.
Savary đánh đổ làn chà là giữa lối đi và cất tiếng than vãn khiến Quốc
vương chú ý đến lão. Hắn bèn cho ngựa đi nước kiệu. Vẻ lúng túng và vờ
khiếp sợ