không sao rút ra được. Bà chóng quên, chính miệng bà đã thú nhận. Trừ
một người!
- Còn với những người khác thì bà là gì ?...
- Một dấu hiệu của mâu thuẫn. Bà là một tiếng gọi, một tiếng kêu khiến
chúng tôi cứ thế là tự tách ra khỏi bản thân, giống như trường hợp ông bạn
Hăngri Rônhiê tôi vừa kể.
- Ôi, ông đừng tự dằn vặt như thế nữa - Angêlic phản đối - Chính bản thân
các ông cũng chứa đầy mâu thuẫn. Tất cả các ông đều ích kỷ và vô ơn.
Chưa có thì các ông kêu ca nhưng cái đang nắm trong tay thì các ông lại
không biết hưởng.
Nghe ông nói, tưởng chừng tôi gây đau khổ cho mọi người chỉ cốt thỏa ý
thích cá nhân, chứ bản thân tôi thì không phải chịu đau khổ bao giờ!
Ơn Chúa tôi đã
yêu một người và tôi không sao quên người ấy được. Đâu phải lúc nào
người ấy cũng ở bên tôi ? Và tôi đã phải chịu bao nhiêu đau khổ của sự chia
ly, nỗi khổ mà các ông tưởng chỉ các ông mới phải chịu!
- Tôi hiểu. Sung sướng thây kẻ nào được bà không thể quên!
Kỷ niệm về chàng hiệp sĩ Hăngri Rônhiê xem chừng đã dịu bớt và bá tước
quay trở lại vấn để ám ảnh ông nhiều nhất.
- Cha Đoócgiơvan từng nói rằng mục đích của chúng ta là làm sao trên trái
đất này chỉ ngự trị một tín ngưỡng duy nhất.
Nàng đặt bàn tay lên cổ tay ông.
- Anh Lômêni thân mến, tôi với anh đều gánh chịu hậu quả bao cuộc chiến
tranh tôn giáo kéo dài suốt hai trăm năm và dìm châu Âu vào biển máu!
Cũng chỉ vì người ta muốn trên khắp trái đất chỉ ngự trị duy nhất một tín
ngưỡng. Thiết tưởng tôi với anh chúng ta nên cố xây dựng miền Đất Mới
này thành nơi hoà bình. Không được sao ?
- Bà nói nghe cũng có lý. Tôi không phủ nhận... Tuy nhiên Cha Đoócgiơvan
nghi ngờ bà là đúng. Ông ta sợ bà lung lạc ý chí của những cong người
đang làm nhiệm vụ thiêng liêng đưa đạo Cơ đốc thành tín ngưỡng ngự trị
trên toàn thế giới. Cha Đoócgiơvan coi bà là một chính khách nguy hiểm.
- Chính khách ? Tôi chỉ là một