lễ. Hình ảnh hoa và nến ở hiện trường vụ án. Thư và bưu ảnh cho hai đứa
bé. Trẻ em kêu gào. Người lớn than khóc.
Cô đặt tờ báo xuống, vừa uống nốt chỗ cortado thì chuông điện thoại reo.
“Xin chào. Mia đây.”
“Holger. Cô đang ở đâu?”
“Tiệm cà phê Kaffebrenneriet ở Storgata. Có chuyện gì không?”
“Một đứa bé khác vừa bị mất tích.”
Mia thấy lông tơ ở cánh tay dựng hết lên. Cô khoác vội áo da và vài giây
sau đã ra khỏi cửa hàng.
“Anh có ở văn phòng không?”
“Tôi vừa chuẩn bị đi.”
“Đón tôi ngoài nhà số 7-11 ở Pløensgate.”
“Được.”
Mia tắt máy, chạy về phía Youngstorvet. Mẹ kiếp! Số 3. Ba vạch trên
móng ngón út bàn tay trái. Không, lần này không được. Lần này họ đã có
manh mối ban đầu. Một đứa bé khác mất tích, nhưng họ đang xử lý vụ án.
Sẽ không có thêm các vạch trên móng tay. Mia không biết cô bé mới mất
tích này là ai, nhưng trên đường len qua đám đông tới Torggata, cô đã
quyết định họ sẽ tìm được đứa bé trước khi quá muộn.
Cô đến góc phố Youngstorvet vừa khi chiếc Audi màu đen của Holger
chạy đến Pløensgate. Cô nhảy vào ghế sau, sập mạnh cửa xe.
“Chúng ta đi đâu?” Cô hổn hển.
“Disen,” Munch trả lời ngắn gọn. “Disenveien. Họ gọi mười phút trước.
Andrea Lyng. Con bé không có trên giường khi cha nó thức dậy.”
Munch đặt đèn xanh cảnh sát nhấp nháy trên nóc xe và nhấn ga.
“Anh ta chỉ vừa dậy à?”
Cô xem giờ trên điện thoại.
“Hình như thế,” Munch lẩm bẩm.
“Ai ở đó rồi?”