của Castro, ông bà ngoại tôi cũng qua đời cùng trong năm đó và bà trốn
sang Mỹ với bốn đứa con của mình. Chuyến bay đến Miami cấm mang theo
giấy tờ, vật tùy thân và tiền bạc - không cả chứng chỉ tiến sỹ giáo dục mà bà
đã có từ cả thập kỷ trước trên đất Mỹ, không một xu dính túi và không có
bằng chứng về trình độ của mình, bà bắt đầu lại từ việc làm giáo viên dạy
tiếng Tây Ban Nha trong một trường trung học. Bà tái hôn và đến trường
học buổi tối trong bảy năm để có được bằng thạc sỹ thứ hai, bằng cấp duy
nhất bà có thể chứng minh mình có được.
Mẹ tôi có nhiều lý do để buồn rầu về bất kỳ điều gì, nhưng bà luôn yêu đời
và rất hiếm khi nói về quá khứ. Người phụ nữ tôi biết không thể bị trầm
cảm, nhưng đó không phải là người tôi gặp khi hạ cánh xuống Arizona. Bây
giờ, bà chẳng thể nói về điều gì khác ngoài những mất mát và những căn
bệnh mà các bác sỹ không thể chẩn đoán ra. Hầu hết thời gian, bà chỉ nói về
cái chết.
“Javi,” bà nói, dùng tên gọi ở nhà của tôi: “Mẹ muốn con đến gặp bác sỹ
với mẹ ngày mai. Mẹ cần nói chuyện với bà ấy.”
“Có việc gì hả mẹ?” tôi hỏi.
“Về việc những thứ này đang giết dần giết mòn mẹ. Làm ơn đi, Javi.” Rồi
bà òa khóc. Trong suốt buổi chiều ấy, tôi hầu như chỉ ngồi cầm tay, cố gắng
an ủi bà và bảo đảm với bà rằng bà sẽ không chết đâu.
Khi lái xe đưa bà đến cuộc hẹn khám ngày hôm sau, bà cứ khăng khăng đòi
bác sĩ nói chuyện với tôi. Chúng tôi gặp riêng và khi bà bác sĩ miêu tả về
các triệu chứng của mẹ tôi cùng với các khả năng chẩn đoán, tôi chắc chắn
hơn rằng đây chính là một dạng rối loạn trầm cảm cơ bản. Tôi hỏi bác sỹ
liệu bà đã giới thiệu cho mẹ tôi một nhà tư vấn tâm lý nào chưa. Bà nói rằng
có, “nhưng mẹ anh từ chối,” bà giải thích. “Bà ấy rất cứng rắn trong chuyện
này và nói rằng bà không bị trầm cảm. ‘Nhưng Maria này,’ tôi bảo bà ấy,
‘nhìn bà buồn rầu lắm.’ Nhưng bà ấy bảo tôi rằng trông tôi cũng sẽ buồn