điều mòn sáo mà vợ chồng thường nói với nhau cả trăm cả ngàn lần, như
thể lấy nó để cố níu người đi đừng bao giờ bước ra khỏi cửa đi xa. Tôn Vũ
nghe, lòng bỗng trào lên từng con sóng để nó đè lấp đi, nuốt phăng đi
những điều cặn bã mà trước đó mấy canh giờ mình đã từng để nó còn nổi
lên. Tôn Vũ bảo với vợ rằng, mình đã từng cười cợt lý tưởng chủ nghĩa của
nhà nho, nhìn nhận một thứ mong ước tốt đẹp như một điều kiện thực; đã
từng coi khinh thái độ tiêu cực yếm thế, xa lánh cuộc đời, thanh tịnh vô vi,
thủ tiêu đấu tranh… của đạo gia, và nghĩ rằng nếu ai ai cũng vào rừng ở ẩn,
tu luyện thành tiên, thì cái ăn cái mặc ở đâu ra, ai là người nói lên chính
nghĩa, cái tà cái ác để ai trừ, xã hội làm sao có thể phát triển lên được? Bởi
thế mà ông muốn xuất phát từ hiện thực, tổng kết những kinh nghiệm chiến
tranh từ xưa đến nay, in dấu chân lên khắp trăm sông ngàn suối, muôn núi
vạn đèo, đi khảo sát chiến trường xưa, viết mười ba bài “binh pháp”, để chỉ
đạo những người có tri thức trong thiên hạ, lấy chiến tranh để xua đuổi tà
ác, để tiêu diệt chiến tranh, đẩy xã hội tiến lên phía trước, để thực hiện chủ
trương chính trị của Khổng Khưu là “thi hành đạo lớn, coi xã hội là của
chung”. Cũng có nghĩa là muốn nói, nhà binh với nhà nho đều tích cực vào
đời, mục đích cuối cùng của họ cũng nhất trí với nhau, đều đi đến chỗ lý
tưởng “lấy đức trị bằng nhân chính” và “coi xã hội là của chung”, nhưng
thủ đoạn; phương pháp, bước đi để thực hiện nó, con đường đi lại khác
nhau xa. Nhà nho thì dựa vào thuyết giáo chính trị về “nhân, nghĩa”, còn
nhà binh thì không gì hơn là dựa vào uy lực của chiến tranh. Kỳ thực thì
nhà nho cũng chưa bao giờ xa rời thực lực của chiến tranh. Cứ lấy ngay
Khổng Khưu mà nói, khử trừ được Dương Hổ, họp liên minh ở Hiệp Cốc,
huỷ hoại ba kinh đô, v.v… đã có những điểm nào xa rời thực lực quân sự
đâu? Muốn lấy quân dùng binh tất sẽ xẩy ra đầu rơi máu chảy và nhất định
sẽ phải trả giá và phải hy sinh, làm sao có thể chỉ vì một vấp váp không
may của cha mình trên bước đường chính trị, cũng như một chút gập ghềnh
trên con đường đi lên của mình mà cúi đầu lui bước, trượt dài vào cái hố
bùn lánh đời nhơ bẩn mà mình hằng khinh ghét. Qua bao nỗi vất vả bôn ba
bươn chải, mười ba chương của “binh pháp” đã viết xong, hơn nữa sau khi
đến nước Ngô, căn cứ vào đặc điểm tình hình sông nước của các nước phía