đúng là kỳ phùng địch thủ, thế lực đều tám lạng nửa cân. Đến lúc vàng mặt
trời, lại khua lệnh lên, thu quân. Cứ như thế kịch chiến với nhau ba ngày,
rốt cuộc vẫn không phân thắng bại.
Hạp Lư thấy sốt ruột, bèn nói với Tôn Tử:
– Tại sao nguyên soái không thử xem, cũng để cho Phu Khái và Bị Ly
mở mắt ra một chút chứ!
Ngô vương đã lệnh thế Tôn Tử còn chối từ làm sao được qua bàn bạc,
ông thay vào chức vụ của Bị Ly, chỉ huy hữu quân. Đêm ấy, dưới ánh trăng
ông đã sắp đặt lại mọi việc.
Nguyên là hai sườn nam bắc của núi Khung Long thế núi khác nhau,
sườn nam thoải hơn, dễ leo hơn, nhưng đường lại xa; sườn bắc cheo leo
lửng lơ ngất ngưởng, lởm chởm nhấp nhô đủ kiểu, khe sâu vực thẳm, rãnh
ngầm tối om, chim bay không tới, ma kinh vượn rợn, nhưng đường đi lại
chỉ bằng một phần ba sườn phía nam.
Ánh trăng chiếu vào lòng núi, những khe những luỹ thấp thoáng ẩn hiện,
hắt lên những ánh sáng lạnh ớn người, từ trong rừng sâu thi thoảng lại vẳng
đưa những tiếng chim lạ, lúc thì thầm như giọng nói đàn bà, lúc lại ré lên
như tiếng khóc trẻ thơ, có lúc lại như cụ già ho khù khụ… Ở một khoảng
bằng phẳng trên đỉnh gò, đã tụ tập tới hàng ngàn người ngựa của hữu quân.
Tôn Tử đang làm công việc động viên nhắc nhở trước khi bước vào chiến
đấu và sắp đắt kế hoạch. Sau cùng ông nói:
– Phàm có kẻ nào dám trái lệnh, quân pháp sẽ không tha!
Tướng sĩ ai ai cũng hiểu rõ hàm ý câu quân pháp không tha ấy là gì, bởi
việc Tôn Tử chém hai nàng cơ Hạ và Khương, đã lan truyền trong khắp ba
quân như một câu chuyện hay, đêm nay chủ soái nhắc lại thế, không ai
không run sợ. Đừng thấy trên lưng gò này phẳng phiu như thế mà tưởng
tầm thường, phía tận cùng của nó lại hẫng như treo, sâu thẳm khôn lường.
Tôn Tử chọn mười người lính nhanh nhẹn và khoẻ mạnh, đứng dàn hàng
ngang trên đỉnh gò cao, phát ra hiệu lệnh, hàng ngang đi đều bước về phía
trước, đi đến mé vực đá treo, có người không sợ chết, tiếp tục bước về phía