ý của hai người, đã mở trường tư thục ngay trong phủ, mời gia sư về dạy
cho con. Tuy nhiên, làm thầy dạy cho Điền Vũ rất khó, mới có ba năm, đã
phải đổi tới bốn ông thầy.
Thí dụ có một ông tên là Trương Phụng Chi, thi thư đầy một bụng, suy
nghĩ về văn chương rất nhạy bén, xuất khẩu thành chương. Mỗi lần đi đâu
ông đều hay tức cảnh,sinh tình, cùng Điền Vũ ngâm thơ học đối. Lòng đầy
xúc động và hứng thú, ông ngâm một câu thơ, trong tình hình không hề có
sự chuẩn bị chút gì về tư tưởng, ông bảo Điền Vũ đối vào vế sau, mà lại
phải đối thật chỉnh, đúng niêm luật. Ông muốn dùng cách đó để thử tài
Điền Vũ và bồi dưỡng cho cậu sự linh cảm, nâng cao tốc độ phản ứng và
năng lực ứng biến của cậu.
Một ngày giữa mùa xuân, thầy trò đã trẩy thuyền ven dòng Thời Thuỷ
lên phía bắc. Lòng sông khúc khuỷu quanh co, nước sông rì rào cuộn chảy,
gió xuân mang lại niềm sảng khoái, liễu xanh rủ dọc bờ đê, én dệt thoi mây,
chim ca ríu rít, tình thơ ý hoạ, hun đúc nên tính tình của con người. Phía
trước không xa, ai đã bắc lên chiếc cầu cong bằng đá, ven theo chân đê
ngoằn ngoèo, chiếc thuyền con lướt lên phía trước và đã tới chân cầu, rồi
xuyên thẳng qua. Trương Phụng Chi ngâm lên:
– Xa đáo sơn tiền tất hữu lộ (Xe lên trước núi hẳn có đường).
Điền Vũ như đã đoán định từ trước rằng đến lúc này, thầy giáo không thể
không ngâm lên câu đó, nên cậu đã buột miệng thêm rằng:
– Thuyền đáo kiều đấu tự nhiên trực (Thuyền đến chân cầu tự nhiên
thẳng).
Thầy giáo Trương vui quá, ôm ghì Điền Vũ vào trong lòng mình hết lắc
lại lay, lại ngâm thơ, lại cười cười nói nói, thậm chí cà cả chiếc cằm đầy râu
khô cứng lên khuôn mặt bầu bĩnh của cậu bé, rậm đến nỗi Điền Vũ phải rụt
xo lại như một con mèo nằm gọn trong lòng thầy giáo. Ở đây chỉ có tình
cảm và lòng mến yêu, sự tôn nghiêm của đạo thầy trò đã tạm thời biến mất.
Thời Thuỷ hội nhập vào Tri Thuỷ, đến đây lòng sông rộng ra, nước sông
cũng chảy lững lờ hơn, người nằm ngửa trên thuyền, như đứa trẻ nằm trong