hước đến như vậy, ấy thế mà Chiêu vương lại cứ tin cho là thật. Chẳng lẽ
Chiêu vương là hạng người không có chút mảy may đầu óc nào, ngu độn
đến mức không biết phân biết phải trái thẳng cong ra sao ư? Không đâu!
Phong Hồ Tử thổi phồng ca ngợi mãi về sự thần bí của Trạm Lư, còn Chiêu
vương thì hỏi lại về lại lịch thanh gươm ấy, không có tin tức gì, điều đó
khiến ông ta dễ dàng tiếp nhận lời nói của Phong Hồ. Câu nói nhăng nhít
của lệnh doãn Nang Ngoã rằng “gươm này là trời cho, muốn ca ngợi thánh
đức của đại vương”, tuy chưa nói ra lai lịch của gươm Trạm Lư, nhưng lại
khớp với lời nói của Phong Hồ, cho nên có tác dụng thôi thúc và đẩy mạnh
rất lớn. Mà điều chủ yếu hơn là Chiêu vương vốn có tính tham lam, một
lòng muốn xưng bá chư hầu, làm vua cả thiên hạ. Hơn nữa ông ta còn tự tin
rằng mình có khả năng và điều kiện ấy, lời nói của Phong Hồ nhằm trúng
vào tâm lý của ông ta. Đúng như người ta nói: cái lợi dễ khiến người ta loá
mắt và mất khôn, thế là cứ đinh ninh tin vào lời lẽ của Phong Hồ, không
chút nghi ngờ chi nữa.
– Trong tay Ngô vương có ba thanh gươm báu, hai thanh còn lại lúc này
ở đâu? – Chiêu vương miệng hỏi nhưng mắt thì ánh lên vẻ tham lam thèm
thuồng.
Phong Hồ Tử chậm rãi và không cần suy nghĩ trả lời ngay:
– Hạp Lư có một cô con gái duy nhất tên là Thắng Ngọc, rất được sủng
ái, chẳng may mắc bệnh, chết non, ông đau khổ không thiết sống, nên đã
lấy thanh gươm Bàn Sính dưới Trạm Lư một mức, đặt vào quan tài làm vật
tuỳ táng. Thanh thứ ba là Ngưu Trường, vì Hạp Lư đã dùng nó giết hại
Vương Liêu, làm một việc phi nghĩa, cho nên đã hết cả thần lực.
Chiêu vương lại hỏi:
– Nếu như thế thì trong tay Hạp Lư không còn một thành gươm báu nào
ư?
Phong Hồ đáp:
– Giết em họ, khiến muôn dân đau khổ, một ông vua vô đạo như thế sao
có thể giữ được gươm báu.