nhắc đến toàn cục, muốn giữ yên cho kinh đô, nên chủ động di chuyển đến
cố thủ ở đây không bằng.
Thẩm Doãn Tuất không hề để ý đến những lời véo von như tiếng hót hoạ
mi của Nang Ngoã, có thể ông ta còn chưa nghe rõ rốt cuộc đối phương
đang nói những gì, nên đã hỏi dồn:
– Nếu nói thế, có nghĩa là thuyền bè của quân Ngô đều vứt ở cửa sông
Hoài Nhuế hay sao?
– Theo như tin báo, thì thuyền bè của quân Ngô đúng là đều bỏ ở sông
Hoài Nhuế – Nang Ngoã trả lời ráo hoảnh không hề ấp úng hàm hồ.
Thẩm Doãn Tuất ngửa mặt lên, cười ha hả mãi không thôi, cười đến nỗi
Nang Ngoã ngớ cả người ra, rồi hỏi:
– Tại sao Tư Mã lại cười?
Thẩm Doãn Tuất đáp:
– Người ta bảo cầm quân như thần, hoá ra chẳng qua là thế, thật là trò
đùa.
– Thế nghĩa là thế nào?
– Quân Ngô xưa nay chỉ giỏi đánh nhau trên sông nước, phen này vì chỉ
muốn nhanh, đã bỏ thuyền lên bộ, mặt mạnh không dùng, lại dùng mặt yếu,
thế thì làm gì mà chẳng thua? Ta chỉ cần dùng một mẹo vặt, dám chắc là
quân Ngô sẽ không còn mảnh giáp.
Nói khoác vẫn không phải nộp thuế, Thẩm Doãn Tuất tưởng thế nào, hoá
ra cũng đang nói khoác. Kỳ thực hắn đâu có phải là chưa từng đọ với Tôn
Tử, mà đã có mấy bận khi quân Ngô chia ba làm suy yếu quân Sở, ông ta
đã từng bị Tôn Tử quần cho phải lao lung tung như nhặng mất đầu đến nỗi
bươu đầu sứt trán.
Nang Ngoã vội như vồ lấy hỏi:
– Tư mã có diệu kế chi vậy?
Thẩm Doãn Tuất thủng thẳng chậm rãi nói: