nếm đủ mùi, cay đắng, nhiều phen xuýt chết, thập tử nhất sinh trốn được
sang đến nước Ngô. Mỗi lần nghĩ đến đó, trong lòng Ngũ Tử Tư lại dâng
lên một niềm căm giận, như muốn nổ tung cả ruột gan. Hôm nay trên
đường về nước, Ngũ Tử Tư đang dẫn một đội binh hùng tướng mạnh, tại
sao không đi một quãng đường vòng sang diệt nước Trịnh, để báo thù rửa
hận. Ngũ Tử Tư nghĩ như vậy và cho quân chuyển hướng sang nước Trịnh,
trước hết gửi chiến thư, sau sẽ vây kinh đô nước Trịnh. Vốn là một nước
nhỏ, chiến xa chưa đầy trăm cỗ, nước Trịnh làm sao có thể chịu nổi một
đòn tấn công với mấy vạn binh hùng tướng mạnh của Ngũ Tử Tư. Ấy thế
mà trên đời này đúng là không có chuyện lạ gì không thể xảy ra, nước
Trịnh như thế mà không tốn một mũi tên người lính vẫn đánh lui được quân
Ngô. Nguyên là khi nhận được thư khiêu chiến của Ngũ Tử Tư, Trịnh Hiến
công run sợ mặt như chàm đổ, quân thần cũng đành chịu bó tay. Đang giữa
lúc vua tôi nước Trịnh lo lắng bồn chồn như ngồi trên đống lửa, có một
chàng trai vốn làm nghề chài lưới đến xin gặp Trịnh vương, tự xưng là có
thể làm cho quân Ngô rút đi mà không cần binh mã lương thảo chi hết, mà
chỉ bằng hai mái chèo sẵn có trong tay. Lời lẽ của chàng trai làng chài, gần
như điên rồ, ai mà tin được. Thế nhưng đã đến lúc hết mọi cách, thì cứ để
cho anh ta thử sức xem sao. Chàng trai cầm hai mái chèo trong tay, đi đến
doanh trại quân Ngô, nhìn thấy Ngũ Tử Tư liền quỳ xuống đất và hát:
Người trong sậy, người trong lau
Qua sông buổi ấy nhớ nhau chăng là?
Kiên thất tinh tân tay ta
Trao người buổi ấy, chắc là vẫn mang.
Cơm trắng canh cá thơm lừng
Lão chài buổi ấy nhớ chăng hỡi người?…
Thật đúng là đi vẹt gót giày tìm chẳng thấy, không ngờ, giờ đây lại đang
ở trước mặt mình! Trên đường rút quân chuyến này, Ngũ Tử Tư đã sắp xếp
hẳn một chuyến đi, đến các vạn chài, mong tìm được lão chài “buổi ấy” để
đền ơn cứu mạng, thế nhưng không tìm thấy, không ngờ lại có chàng trai