súc, tìm bên dưới những chiếc thuyền lật úp, tìm kiếm ở mọi nơi xem biết
đâu người đàn ông độc thân mê whisky này say quá mà ngủ quên mất.
Nhưng họ chỉ mới bắt đầu thì có một cuộc gọi qua radio sóng ngắn cho biết:
thi thể ông Martin đã được kéo lên ngoài biển.
Khi người ngư dân đã tìm thấy ông ta đi vào quán rượu thì tôi đang ở đó
cùng bố. Lúc đó mới tầm giữa trưa, nhưng ông này vẫn được đưa cho một
chai bia theo đúng nguyên tắc phục vụ, và chỉ trong vòng vài phút, người
đàn ông đã thuật lại câu chuyện của mình.
“Lúc đó tôi đang ở trên chỗ mũi Gannet để kéo lưới”, ông ta bắt đầu.
“Lưới nặng kinh khủng, một chuyện thật lạ vì bình thường ở đó tôi chỉ kéo
được rất ít, gần như chẳng có gì, vài con tôm vớ vẩn, thế thôi. Nghĩ rằng
mình đã kéo phải một lồng bẫy cua, tôi liền vớ lấy cây lao có mấu và quờ
quạng bên dưới thuyền cho tới khi nó móc vào thứ gì đó.” Tất cả chúng tôi
cùng nhích người lui lại trên ghế của mình, như thể đang trong giờ kể
chuyện tại một trường mẫu giáo quái gở nào đó. “Đó chính là Martin. Có vẻ
như ông ta đã rơi từ trên một vách đá xuống và bị đám cá mập rỉa. Có Chúa
mới biết ông ta lang thang làm gì ngoài chỗ vách đá giữa đêm khuya trong
khi chỉ choàng độc cái áo và đi dép.”
“Ông ta không mặc đồ à?” Kev hỏi.
“Có lẽ đồ để ngủ thôi”, người ngư dân nói. “Không phải để ra ngoài trời
mưa.”
Người ta cầu nguyện vài lời ngắn ngủi cho linh hồn ông Martin, đoạn bắt
đầu trao đổi các giả thiết. Chỉ trong vòng vài phút, quán rượu trở thành nơi
họp bàn mịt mờ khói thuốc của các Sherlock Holmes chếnh choáng hơi
men.
“Có thể ông ta say”, một người đoán liều.
“Mà nếu ông ta lang thang ra chỗ vách đá, có thể ông ta chính là kẻ giết
cừu và lúc đó đang bị săn đuổi”, một người khác nói.
“Thế còn cái gã mới tới trông như con sóc ấy thì sao?” ông ngư dân kia
nói. “Cái tay vẫn cắm trại ấy.”