lăng mộ và Hưng kinh, thì cấm quân cũng chỉ xử lý như những kẻ đào trộm
nhân sâm mà thôi; thứ ba nữa, người hoàng gia không thể tùy tiện điều động
quân Bát Kỳ cho An Thanh Nguyên sử dụng, quân Bát Kỳ vốn đã chẳng có
bao nhiêu, cấm quân phải trông giữ Vĩnh lăng và thành Hách Đồ A Lạp, vậy
mà An Thanh Nguyên vừa mở miệng đã đòi ba trăm kỵ binh, nếu giao cho
An Thanh Nguyên dẫn quân chạy vòng vòng khắp núi, thì ai trông coi Vĩnh
lăng chứ?
An Thanh Nguyên không ngờ cấm quân lại phản ứng như vậy, lẽ nào triều
Thanh không phải của người Mãn ư? Nơi này không phải thánh địa của
người Mãn ư? Y thân là người Hán, vì lý tưởng của bản thân mà ra sức bảo
vệ long mạch triều Thanh, chẳng phải việc lạ lắm sao?
Nhưng trong sách lược lớn hòng bình định thiên hạ của y, những nghi vấn
này đành tạm thời bị gác sang một bên, trước mắt còn có việc quan trọng
hơn phải làm. Nếu không được cấm quân Bát Kỳ ủng hộ, thì y và Kim Lập
Đức cũng phải thực hiện chuyện này. Dù sao người đến trảm long nhất định
không đông, kẻ biết trảm long cũng chỉ có một mình An Long Nhi còn chưa
từng đọc Trảm long quyết, nghĩ vậy, An Thanh Nguyên đành nén cơn giận
trong lòng, nín nhịn bấm quẻ tính toán các loại khả năng Lục Kiều Kiều và
An Long Nhi đến trước trảm long, đồng thời lường cả những khó khăn mà
hai người bọn y sắp phải đối mặt.
Mấy ngày sau, An Thanh Nguyên và Kim Lập Đức dậy sớm rửa mặt chải
đầu, rồi lẳng lặng trông ra từ doanh trại kỵ binh bên ngoài thành Hách Đồ A
Lạp. Khẩu súng ngắn đeo bên hông hai người đã được lau sạch bóng, lên
đạn sẵn sàng. Kim Lập Đức tiện tay múa đao vận động thân thể, An Thanh
Nguyên một tay cầm tấm da dê, tay kia cầm trường kiếm, im lặng lau chùi.
An Thanh Nguyên đã đánh cược với đám người hoàng tộc kia, nếu đến
giờ Ngọ ngày mười bảy tháng Sáu, có một cô gái đến thành Hách Đồ A Lạp
báo cáo quân tình, thì phải sắp xếp cho họ ba trăm kỵ binh lên núi bảo vệ
long mạch, đám người kia cò kè mặc cả hồi lâu, cuối cùng chấp nhận sẽ phái
một trăm kỵ binh, có điều nếu An Thanh Nguyên thua, bọn chúng sẽ dâng