tướng Raken Môncađa.
2. Cái có thực vốn là cái lạc hậu, cổ hủ của Mỹ Latinh được tác giả tái hiện
trong tác phẩm theo phương pháp phúng dụ. Chính nhờ thế, giọng điệu hài
hước đã nổi đậm trong Trăm năm cô đơn. Ví dụ: đá nam châm, kính lúp,
thước đo góc, la bàn, nước đá (ở phần đầu), máy hát, máy nổ, phim ảnh, xe
lửa (ở phần cuối). Ðó là những công cụ từng được sáng chế và sử dụng phổ
biến trên thế giới nhưng vẫn là những thứ tân kì đối với dân chúng
Macônđô.
3. Cái có thực mang tính chất kì diệu được tác giả đưa vào tác phẩm. Ðó là
khả năng ngoại cảm tuyệt vời của đại tá Aurêlianô Buênđya. Ðó là sự đồng
cảm tuyệt đối giữa hai chú bé sinh đôi khi người này uống nước chanh thì
người kia, mặc dù không uống, vẫn cứ nói đúng trăm phần trăm là nước
chanh không pha đường..
4. Cái có thực được nhà văn tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hoá
đẩy nó tới mức phi thường hoặc quái dị. Ðó là trường hợp Rêmêđiôt -
Người đẹp là một cô hầu người Anhđiêng. Cô ta vốn không đẹp. Cô ta vô
cớ bỏ nhà chủ và chủ nhà không hay biết cô ta bỏ đi lúc nào và đi đâu.
Trong Trăm năm cô đơn, cái cô người ở ấy đã trở thành người trong gia
đình, người đẹp và cô ta đã bay lên trời vì cô ta là hiện thực là cái đẹp
không thuộc cõi thế tục này. Ngược lại với trường hợp cô gái là vụ thảm sát
hơn ba ngàn người là chuyện có thực từng xảy ra ở Côlômbia vào cuối
những năm hai mươi thế kỉ này, nhưng đã được Gacxia Mackêt huyền thoại
hoá theo hướng quái dị để bộc lộ bản chất xấu xa, đê tiện, tàn nhẫn của tư
bản Mỹ.
5. Cái không có thực do nhà văn căn cứ vào cảm quan cửa mình trước thực
tại xã hội mà tưởng tượng ra rồi đưa vào tác phẩm theo nguyên tắc huyền
thoại hoá. Mưa hoa trong đám tang của Hôsê Accađiô Buênđya là cảm
quan xót thương của tác giả trước một con người đầy nghị lực, đầy thông
minh, luôn đam mê hiểu biết. Trận mưa lụt là cảm quan của tác giả trước