Về các loại chiến tranh, ngoài những tên gọi trên, ta còn có thể thấy những
danh từ khác như khởi nghĩa vũ trang hay đồng khởi thay vì vũ trang nổi
dậy, chiến tranh đặc biệt thay vì chiến tranh chống nổi dậy, chiến tranh hạn
chế thay vì chiến tranh cục bộ. Về phía CS, trong những ấn phẩm cũng như
trên đài phát thanh, người ta luôn luôn thấy chữ “nhân dân” đi kèm với
chiến tranh ở khắp giai đoạn (chiến tranh nhân dân). Còn về phía Mỹ và
VNCH, danh từ phiến động hay phiến loạn (insurgency) và chống phiến
loạn (counterinsurgency) được dùng để thay thế cho nổi dậy và chống nổi
dậy.
Nhìn dưới khía cạnh khác, ta có thể nói lúc đầu đôi bên đã tiến hành đấu
tranh chính trị sang bán vũ trang, rồi vũ trang. Mức độ vũ trang của phía
CS từ du kích sang vận động, và từ vận động sang trận địa. Hình thái chiến
tranh từ không quy ước, sang bán quy ước đến quy ước. Tuy nhiên, không
thể dựa vào khía cạnh này để phân định chiến kỳ rõ rệt như cách phân định
y cứ vào sự thay đổi thế chiến lược ở trên. Vì, trên nguyên tắc tiến hành
chiến tranh, CS luôn luôn kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang, kết hợp du kích với vận động chiến và trận địa chiến, kết hợp quy
ước với không quy ước, v..v… Điển hình trong trận tổng công kích 1972,
quy ước chiến đã được tiến hành trên các mặt trận điểm (Quảng Tri,
Kontum, Bình Long), trong khi tại các mặt trận diện rải rác khắp nơi,
không quy ước được coi là chủ yếu.
Từ Đấu Tranh Chính Trị Đến Đấu Tranh Vũ Trang
Hình thức đấu tranh chính trị của chính quyền miền Nam trong thời kỳ đầu
được quy vào bốn chữ “quốc sách tố Cộng.” Gọi là quốc sách, vì nó quả là
chính sách quốc gia thời ấy, nếu chính sách quốc gia được hiểu như những
phương thức hướng dẫn chính quyền trong việc thực hiện các tiêu đích mà
quốc gia phải đạt được. Tiêu đích mà quốc gia phải đạt đối với chính quyền
lúc ấy không có gì khác hơn là tận diệt đảng viên CS nằm vùng tại miền