thức được thành lập.
Tại Phi-Líp-Pin, đảng CS đã được thành lập năm 1930, sau khi đã thâm
nhập vào tổ chức thợ thuyền và hiệp hội tá điền. Cộng đảng Phi thành hình
nhờ chính Cộng đảng Mỹ gây mầm bắt rễ. Những cán bộ của đảng đã cố
gắng khai thác lòng bất mãn cao độ của nông dân nghèo khó ở Luzon trong
sự bóc lột của điền chủ. Đại hội đầu tiên của đảng được triệu tập bí mật tại
Manila vào tháng 5 năm 1931, đã quy tụ 40 đại biểu từ 13 tỉnh về. Cũng
trong năm này, đảng Cộng sản bị nhà cầm quyền đặt ra ngoài vòng pháp
luật. Sau đó nhiều cán bộ cao cấp bị bắt giữ. Mãi tới năm 1938 nhờ sự can
thiệp của Cộng đảng Mỹ, nhóm lãnh tụ Phi Cộng mới được phóng thích.
Thấy đứng riêng rẽ bất lợi, nhóm cộng sản bèn sát nhập vào đảng Xã Hội
để dễ bề hoạt động. Đảng Xã Hội vốn là một tổ chức hợp pháp, tranh đấu
ôn hoà, nhiều nhân vật chủ chốt trong đảng có óc bài cộng. Nhưng từ khi
tiếp nhận nhóm cộng sản, đảng này bị nhuộm đỏ dần và sau cùng chuyển
hẳn sang khuynh hướng cộng sản.
Thế Chiến II, Cơ Hội Phát Triển
Thế chiến II là thời cơ thuận lợi nhất cho sự phát triển của cộng sản Đông
Nam Á. Đứng chung trong phong trào cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản
địa phương đã không do dự trong sự đương đầu với Nhật. Trong khi các tổ
chức cách mạng không cộng sản đã bị phân hoá – đoàn thể hợp tác với
Nhật, đoàn thể chống lại – nên sau đó đã bị suy yếu tiềm lực đi nhiều.
Tại Indonesia, phe cách mạng dân tộc, đại diện là Sukarno và Mohamed
Hatta (sau này là tổng thống và phó tổng thống), đã cộng tác với Nhật;
trong khi đó, những người cộng sản lại tham gia phong trào kháng Nhật của
các phần tử xã hội do Soetan Sjahir và Amir Sjarifuddin cầm đầu. Chính
nhờ dịp này mà phong trào cộng sản Indonesia đang hầu như tan rã lại dần
dần hồi sinh và tái lập thành đảng ngay sau thế chiến.
Tại Miến Điện, tổ chức cách mạng chống Anh của nhóm Ba Maw – Aung
San – Ne Win đã đứng hẳn về phía hàng ngũ Nhật trong khi Nhật tiến