Cộng Hoà năm 1964, Johnson lại gáy giọng “bồ câu” để hốt phiếu. Chính
người viết đã thấy tận mắt những biểu ngữ mà uỷ ban vận động bầu cử của
Johnson giăng trước các trụ sở nhằm đả kích những lời tuyên bố hiếu chiến
của Goldwater như “dội bom xuống đường mòn Hồ Chí Minh”, “dội bom
xuống Bắc Việt.” Thế mà sau khi đắc cử, Johnson đã thi hành theo đúng
những ý kiến bị phe ông ta gọi là ngu xuẩn ấy.
Trước và sau khi đắc cử, con người của Johnson đã thay đổi là thế. Nếu lại
truy lên từ cuộc chiến tranh Đông Dương trước kia để nhớ lại Johnson đã
từng cầm đầu nhóm nghị sĩ chống lại việc can thiệp vào Việt Nam năm
1954, thì mới lại càng thấy lập trường của Johnson đã thay đổi như thế nào.
Về phần Kennedy, năm 1962 ông ta đã đưa lính Mỹ vào Việt Nam, dù với
con số nhỏ bé, nhưng là những bước khởi đầu quan trọng. Năm 1963,
Kennedy cho rằng thật là một sự lầm lẫn lớn nếu người Mỹ rút ra khỏi Việt
Nam. Nghĩa là ông ta chủ trương trú đóng ở Việt Nam lâu dài, mặc dầu
trước đó 9 năm (1954) thời còn là nghị sĩ, ông ta đã nhận định khá sáng
suốt về trận chiến sa lầy ở Đông Dương “Tôi thành tật tin rằng không có số
lượng quân viện nào ở Đông Dương có thể thắng được một kẻ địch có mặt
ở khắp nơi và đồng thời cũng chẳng ở nơi nào cả
”.
Ngoài các tổng thống, ngay đến những viên chức chính quyền thứ cấp khác
cũng có những sự thay đổi lập trường kỳ lạ giữa lúc cầm quyền và không
cầm quyền. Cứ xét qua mấy bộ mặt quen thuộc như McNamara và Clifford,
cựu bộ trưởng quốc phòng, Harriman và Vance, trưởng và phó trưởng phái
đoàn đại diện Mỹ tại hoà hội Paris dưới thời Johnson thì đủ thấy chính
khách Mỹ xoay chiều như thế nào.
Động lực nào đã thúc đẩy họ tới gần “diều hâu” khi cầm quyền và gần “bồ
câu” khi chưa hoặc đã rời chức vụ lãnh đạo? Trả lời hoàn toàn được câu hỏi
này tất phải kiểm điểm lại hệ thống chính trị trong tổ chức xã hội Mỹ, đó là
điều bất khả trong phạm vi một chương sách. Nhưng, nếu chỉ xét đến ảnh
hưởng quan trọng nhất chi phối giới lãnh đạo thì tưởng không thể nào quên
được bàn tay vận dụng của Tư Bản Mỹ.