Dĩ nhiên khi có chiến tranh nóng, dù là chiến tranh hạn chế, các giới tư bản
cũng sẽ thu lợi nhiều hơn. Chiến tranh Việt Nam là một thí dụ điển hình.
Năm 1960, ngân khoản đặt hàng giữ ở mức bình thường sau trận Triều Tiên
là 22.500 triệu Mỹ kim (MK). Trong mấy năm sau, chiến cuộc Việt Nam
bành trướng hơn, Mỹ bắt đầu can thiệp sâu rộng hơn thì số ngân khoản tăng
lên dần tới 28.100 triệu MK vào năm 1963. Năm 1965 là năm quân số
chiến đấu của Mỹ ở Việt Nam tăng vọt lên từ 16.500 đến 165.700, phiếu
đặt hàng cũng vọt lên từ 26.600 triệu MK tài khoá 1965 đến 37.700 triệu
MK tài khoá 1966. Nghĩa là riêng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng tới
9.100 triệu MK một năm trong thời gian ấy.
Những năm kế tiếp, con số tiếp tục cao vời vợi: năm 1967 – 41.800 triệu
MK, năm 1968 – 41.200 triệu MK, năm 1969 – 42.300 triệu MK
Tóm lại trong thập niên 60, kỹ nghệ chiến tranh tại Mỹ đã thu hút 317.800
triệu MK. Hãy nghĩ đến món lời vĩ đại mà hàng trăm xí nghiệp trong tập
đoàn tư bản dây phần vào hoạt vụ trên đã thâu đoạt được. Một chuyện khó
có thể tưởng tượng được là riêng trong niên khoá 1968, tại Mỹ đã có tới 5
xí nghiệp nhận phiếu đặt hàng trị giá trên 1.000 triệu MK (General
Dynamics Corporation 2.239 triệu MK, Lockheed Aircraft Corporation
1.871 triệu MK, General Electric Company 1.489 triệu MK, United
Aircraft Corporation 1.321 triệu MK và McDonnel Douglas Corporation
1.101 triệu MK.)
Tuy nhiên, ngoài những tổ chức tư bản thâu lợi nhiều trên, không phải là
không có những tổ chức mất một phần lợi tức trong thời chiến, vì vậy tranh
chấp đã không tránh được trong giới tư bản. Hơn nữa, ngay cả trong số
những tổ chức thâu lợi vì chiến tranh cũng có những sự tranh chấp nhau
làm ảnh hưởng đến đường lối chiến tranh của Mỹ. Trong những nhà tài
phiệt quan trọng ở Bích Lộ, số người gốc Do Thái không phải là ít. Những
người này luôn luôn có khuynh hướng tạo áp lực dập tắt ngòi lửa chiến