(Harvard University Press, Cambridge, 1959) dân số Tàu đã phát triển như
sau: 1393: 65 triệu, 1600: 150 triệu, 1700: 250 triệu, 1779: 275 triệu, 1794:
313 triệu, 1850: 430 triệu, 1953: 583 triệu. Theo thống kê chính thức của
Bắc Kinh: 1957: 647 triệu, 1966: 760 triệu. Và sau cùng theo ước tính hiện
nay người ta đưa con số phỏng định từ 750 đến 850 triệu dân số Tàu (The
1972 World Almanac And Book Of Facts, trang 45.) Với mức độ gia tăng từ
1,5% đến 2% mỗi năm, dân số Trung Hoa sẽ đạt tới một tỷ trong một thời
gian không lâu nữa.
Theo thống kê chính thức của chính phủ miền Nam Việt Nam, năm
1955 tổng số Hoa kiều là 703.120. Con số này bị các chuyên viên về Hoa
kiều cho là quá thấp so với thực tế vì chính phủ không kiểm soát được hết.
Theo Lennox A. Mill trong Southeast Asia, Illusion and Reality In
Politics And Economics.
Tại Phi, một nhà ngoại giao đã nói Tàu cộng chỉ cần đổ bộ lên Luson
200 sĩ quan là họ sẽ có ngay một đạo quân 200.000 người (Manila Times số
ngày 26 tháng 8 năm 1958.) Nghe đâu thành phần thực sự cộng sản trong
số Hoa kiều chỉ có chừng 10% (theo tướng Vargas ước định trong Manila
Times số ngày 19 tháng 3 năm 1958) nhưng hầu hết thanh niên Tàu đều sẵn
sàng nghe theo tiếng gọi của chính quốc trong mọi hành động thù nghịch
với trú xứ khi có dịp.
Trích trong The Common Program Of Chinese Communist, China
Digest số ngày 5 tháng 10 năm 1949.
Bài New China’s Foreign Policy của Ko Pai-nien trong China Digest
số ngày 2 tháng 11 năm 1949.
The Fixed Political Objectives Of Our Party – People’s Action Party,
Singapore 1960.
Năm 1960, một sinh viên Ấn tên là Ghanshyam Mehta du học ở Bắc
Kinh đã lấy được một ấn bản cuốn sử lược trên và đã công bố ở Ấn Độ sau
khi hồi hương năm 1962. Tờ Sự Thật (Pravda) của Nga cũng đã vạch trần ý
đồ bành trướng của Tàu qua bản đồ trong số ngày 2 tháng 9 năm 1964.
Theo cuốn sử lược này, ngoài vùng đất Đông Nam Á nói trên, các phần đất
Trung Quốc đã mất và sẽ phải tranh đoạt lại còn có: