minh trong thế chiến I, dù gặp sự chống đối của Hôi đồng Cố vấn trong
triều đình (các vị này vẫn bất mãn về việc chèn ép lấn đất của Đế quốc Anh
Pháp dưới thời Rama V). Thái đã gửi một đạo quân sang Pháp để tham
chiến trong phe đồng minh và do đó đã có đại diện trong hòa hội quốc tế
Versailles.
Rama VI mất năm 1925, không có con nối dõi, nên được người em là
Prajadhipok (Rama VII) kế vị. Hai triều đại Rama VI và Rama VII có
nhiều sự khác biệt nhau mà nguyên do chính là ở cá tính của hai ông. Rama
VI là người tự tin luôn luôn hành động theo ý chí của chính mình. Ông đích
thân trông nom việc nước, tự bày tỏ quan điểm của mình một cách rành rẽ
với những người cộng sự và bắt buộc những người này phải thi hành đúng
ý mình một khi đã hiểu rõ và chấp thuận. Thậm chí có những tư tưởng thấy
cần phổ biến trong quốc dân, ông đã không nề hà viết những bài báo ký
dưới nhiều bút hiệu khác nhau với những đề tài về chính trị nhiều khi nẩy
lửa. Rama VII thì trái lại, ông quá e dè nhút nhát, thiếu tự tin nên không
kiếm soát nổi triều chính. Việc nước, việc dân lần lần nằm gọn trong sự
thao túng của một số hoàng tộc quốc thích. Những người này ngày càng trở
nên độc đoán chuyên quyền, không những lẫn át cả quyền hành mà còn
ngăn cản cả ý chí canh tân hóa chính thể (trong đó có ý định lập hiến) của
nhà vua nữa. Những sự kiện ấy đã dẫn đến cuộc cách mạng chấm dứt chế
độ quân chủ chuyên chế ở Thái.
Năm 1932, một nhóm sĩ quan cao cấp và viên chức hành chánh hạng trung
đã tổ chức một cuộc chính biến nhằm chấm dứt sự chuyên chế của hoàng
gia và thiết lập một chính thể quân chủ lập hiến.
Có ba yếu tố chính đã dẫn đến sự kiện này: Thứ nhất là sự sút giảm quyền
hành của hoàng gia về tâm lý, nguyên do vì những tư tưởng dân chủ ở Âu
châu mà lớp thị dân đã hấp thụ được cộng thêm với sự e dè nhút nhát của
Rama VII trong việc trị quốc. Thứ hai là sự phát triển của những thành
phần Tây học trong cơ cấu chính quyền, những người này nắm giữ những