đầy ngực. Cũng gần như ngay trong tích tắc đó, quả lựu đạn phát nổ, điếc
tai. Những mảnh kim loại lởm chởm, nóng bỏng và đầy chết chóc của nó
đâm thủng háng Guy, xuyên thẳng vào bụng hắn. Trong một thoáng, Guy
đứng chới với trên mép bồn hoa, thét lên đau đớn. Rồi thân thể của người
Mỹ đổ nhào tới trước, hai tay dang ra bên trên thi thể của cậu bé Việt Nam,
và nằm bất động.
Khi trời sáng hẳn, những người Mỹ bên ngoài Đại sứ quán dần dần thấy rõ
trung đội đặc công Việt Cộng đã kiệt quệ. Sau khi phát hiện lỗ thủng nơi
chân tường thành, một chiếc xe díp của quân cảnh húc vào cổng trước bị
khoá chặt đồng thời lính Sư đoàn 101 Không kỵ bắt đầu đổ bộ bằng trực
thăng xuống nóc tòa nhà sứ quán. Lính nhảy dù chạy rầm rập khắp sáu tầng
lầu toà nhà, tay vung vẫy súng tiểu liên, lựu đạn và dao găm, hi vọng tìm ra
vài tên Việt Cộng bên trong toà nhà. Nhưng họ hết sức ngạc nhiên khi thấy
chỉ có một nhóm nhỏ người Mỹ mặt tái xanh, run rẩy ló mình ra khỏi chỗ
núp.
Cuộc đụng độ vẫn tiếp tục đôi chút trong và chung quanh khu vực sát các
căn nhà nhỏ khác bên trong khuôn viên vì có vài đặc công Việt Cộng sống
sót quyết chống cự tới giọt máu cuối cùng. Rồi sau cùng, trước chín giờ
sáng, Đại sứ quán trở lại tình trạng an ninh khi tướng Westmoreland đến
thanh tra hiện trường.
Cộng Sản chiếm được khuôn viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong sáu tiếng rưỡi
đồng hồ — một cuộc chiếm cứ tương đối ngắn ngủi nhưng làm người Mỹ
choáng váng sâu xa. Trong số hai mươi Việt Cộng đột nhập, chỉ có hai
người sống sót, bị thương và bị bắt. Mười chín thi thể khác được tìm thấy
nằm rải rác khắp khuôn viên giữa gạch đá đổ nát văng ra từ mặt tiền của toà
nhà bị trúng mấy quả B-40. Trong số tử thi có mấy tài xế của Đại sứ quán,
những kẻ có thể là Việt Cộng cũng có thể không. Thậm chí các ký giả dày
dạn kinh nghiệm cũng phải kinh hãi trước quang cảnh tàn sát và hủy hoại
khi họ được phép vào để phỏng vấn tướng Westmoreland về trận đánh Đại
sứ quán Mỹ và về cuộc tổng công kích của Cộng Sản lúc đó đang nổ ra trên
khắp thành thị Miền Nam.