lộ bên ngoài Sài Gòn. Và anh mang Lan đi qua xuôi thuận trong chiếc áo
chùng thâm như một nữ tu Công giáo đang trên đường trở về khu vực
truyền giáo của nhà dòng.
Trong khi ngôi sau tay lái xe díp ra khỏi Sài Gòn, Joseph nhớ lại lời tán gẫu
anh nghe được tối qua tại trụ sở OSS rằng song song với cuôäc kháng chiến
chống lại quân Anh, Việt Minh cũng đang lùng và diệt không chùn tay các
đối thủ của nó mà nó gọi là “Việt gian”. Tuy có để ý xem bên ngoài Sài
Gòn dân quê theo làn sóng cách mạng khủng bố có đang giết các địa chủ
giàu có và các hương chức tham ô không, nhưng khi Joseph lái xe qua phần
đất Nam kỳ còn lại, anh thấy cảnh sắc bên ngoài hình như chỉ thay đổi đôi
chút so với những lần anh ghé lại trước đây. Mãi tới sau ngày kết thúc
chuyến đi phương bắc này, ngồi yên ổn đọc lại báo chí, Joseph mới biết
được kich thước rôäng lớn và mức độ man rợ của cuộc tàn sát ghê gớm ấy.
Từ lúc rút khỏi Sài Gòn vào cuối tháng Chín để bắt đầu cuôc kháng chiến,
Việt Minh đã sát hại các đối thủ chính trị của nó và những trí thức Sài Gòn
và các tỉnh không đứng chung hàng ngũ với nó, bị nó tìm thấy và bắt được.
Đôái tượng là nhân sĩ trí thức, đảng viên các đảng phái dân tộc, lãnh tụ hay
chức săéc của giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo, đặc biệt các đảng viên côäng
sản Quốc tế Đệ tứ trong đó gôàm hâàu hết các tay bỉnh bút của báo La
Lutte. Và thậm chí người đã hợp thức hóa Việt Minh như Nguyễn Văn Sâm
hoặc mời Việt Minh hợp tác như Hồ Văn Ngà. Họ bị hạ sát bằng đủ mọi
hình thức: đâm chém, bắn chết, thăét cổ, chôn sống, đập đầu,v.v. Số lượng
người bị Việt Minh sát hại theo Trần Văn Giàu khi y chạy lánh nạn sang
Bangkok vào năm 1946 thì trong khoảng thời gian âáy, đặc biệt tại Sài
Gòn, là khoảng 2.500 người. Hâäu quả trước mắt là nhờ thế, Việt Minh trở
nên độc quyền trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hậu quả lâu dài là về
sau, Sài Gòn và Nam bôä bị khô cạn sinh lực trí thức và tiềm năng lãnh
đạo.
Lúc này, mặt trời nhiệt đới toả ánh nắng chói lọi, đồng ruộng mạn nam
Trung Kỳ phơn phớt xanh với mạ đang mơn mởn và đường sá tấp nập dân