này trong khoảng từ hơn ba tới gần năm cây số. Theo chiến lược pháo binh
cổ điển, muốn giữ an toàn cho pháo đội, người ta phải đặt trọng pháo 105 li
ở sườn núi phía bên kia rồi bắn đạn theo hình cầu vồng bọc qua đỉnh núi
xuống căn cứ quân sự của chúng tôi. Nhưng từ trên máy bay, tôi đã điều
nghiên rất kỹ các đỉnh núi ấy. Tôi đảm bảo với anh rằng dốc núi rất dựng
đứng tới độ nếu lũ "da vàng" có đặt trọng pháo ở trên phía kia bên sườn
núi, chúng cũng không thể bắn trúng bất cứ chỗ nào ở đây - chúng chỉ có có
thể bắn thẳng lên trời thôi! Nếu địch lùi súng ra xa phía bên kia sườn núi để
có thể bắn cầu vồng qua bên này, đạn đạo sẽ đi rất dài. Chúng không thể
nào rơi trúng tập đoàn cứ điểm. Nhưng giả dụ có xảy ra chuyện như vậy đi
nữa, các khẩu đại pháo 155 li của chúng tôi thừa khả năng phản pháo, bắn
đạn theo cầu vồng qua tới phía bên kia sườn núi và nghiền nát các pháo đội
của bọn chúng đặt ở mé bên đó.
Joseph hỏi lại, giọng ngờ vực:
- Nhưng nếu họ đặt một số đại pháo ở phía bên này sườn núi, mé bên trong
các đỉnh núi bọc sát vòng đai của tập đoàn cứ điểm, hoặc thậm chí đặt ngay
trên các đỉnh núi kia, lúc đó thì sao ạ?
Piroth cãi lại:
- Thưa ngài kính mến, tôi đề nghị trên chuyến bay ra khỏi đây xin anh quan
sát thật kỹ các ngọn núi kia. Tôi sẽ hết sức ngạc nhiên nếu tới lúc đó anh
còn nghĩ rằng với các sườn núi đá dựng đứng như thế, con người ta dám
kéo trọng pháo lên và có thể kéo tới được những chỗ anh vừa nói. Tuy
nhiên, nếu lũ "da vàng" chứng minh rằng chúng có khả năng làm nổi phép
lạ ấy, bộ anh tưởng chúng tôi không xác định được tọa độ đặt trọng pháo
của chúng sao? Và trong khi bọn chúng đang oằn lưng khiêng trọng pháo
lết lên những chỗ đó, bộ anh nghĩ rằng chúng tôi không bắn tan nát chúng
ra, cho chúng về chầu ông bà ông vải trước khi chúng kịp đưa súng tới các
vị trí trên đó sao?
Joseph lại nhìn lên các đỉnh núi:
- Đại tá ạ, rừng rú khốn nạn kia rậm rạp quá, nó khiến cho mình tưởng
tượng rằng đối phương có thể mang được trọng pháo lên trên đó mà chẳng
ai thấy nổi.